Thứ Sáu, 18 tháng 12, 2020

THIÊN CHÚA TOÀN NĂNG

 

THIÊN  CHÚA  TOÀN  NĂNG

Monday, December 14, 2020


 

Chính Thiên Chúa đã hiện ra xác định với ông Ápram (sau là Ápraham) và ông Giacóp: “Ta là Thiên Chúa toàn năng.” (St 17:1; St 35:11) Ngài là Thiên Chúa duy nhất, (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 6:4; Đnl 32:39; Kn 12:13; Is 43:10; Is 44:8; Is 45:5-6; Is 46:9; Đn 14:41; Hs 13:4; Mc 12:29; Ga 5:44; Ga 17:3; 1 Cr 8:4; 1 Tm 2:5; Gl 3:20) không có bất cứ thần nào khác, và chính Ngài là Đấng cầm quyền sinh tử. (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6-7; Kn 16:13; Tb 13:2; x. Tv 30:4)

Thiên Chúa toàn năng nghĩa là Ngài làm được hết mọi sự, (Kn 11:23) không có gì là không thể làm được. (Lc 1:37) Ngài hiện hữu (Xh 3:14) và tạo dựng mọi sự – hữu hình và vô hình – từ hư vô. Ngài là Đấng Thánh, (Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv 20:26; Lv 21:8; Tv 89:36; Tv 99:5 & 9; Is 6:3; Br 4:22; Hs 11:9; Am 4:2; 1 Pr 1:16; Ga 6:69) và Ngài thấu suốt mọi sự. (1 Sb 28:9b; Gđt 8:14; Et 4:17d; Et 5:1a; 2 Mcb 6:30; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10:12; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20)

Tất nhiên Ngài cũng cấm chúng ta phủ phục trước bất cứ thần nào khác. (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 5:7; Kn 12:13; Is) Chính Ngài nói rõ: “Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ.” (Xh 20:4; Đnl 5:8) Và Ngài xác định: “Ngoài Ta ra, chẳng có ai cứu độ.” (Is 43:11)

Quả thật, Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ duy nhất. Xác định như vậy chưa đủ, còn phải can đảm chứng minh điều đó, không chao đảo trước bất cứ tôn giáo nào khác, nghĩa là phải phân định rạch ròi bởi vì ngày nay nhiều người mạo nhận mình được mặc khải rồi lập giáo phái này, hệ phái nọ, theo kiểu dị giáo hoặc tà thuyết. Việt Nam cũng có, cụ thể như trường hợp chị Thương ở Bảo Lộc (Lâm Đồng, GP Đà Lạt), trong nhóm đó có Lm Truyền đã bị vạ huyền chức.

Lời Thánh Phêrô cảnh báo từ xưa vẫn mang tính thời sự: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.” (1 Pr 5:8) Đó là khôn ngoan – khôn ngoan thực sự chứ không mơ hồ. Chúa Giêsu xác định: “Đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động.” (Mt 11:19b)

Sự sợ hãi là tình trạng có thể chi phối cuộc sống của chúng ta, cần có người động viên hoặc tự động viên. Người không sợ hãi là người can đảm, không lùi bước trước bất công. Trong cuộc sống, có nhiều khi chúng ta thấy không dễ thể hiện lòng can đảm. Với các sắc thái khác nhau, Kinh Thánh đề cập mệnh lệnh “đừng sợ” 365 lần – cụ thể như St 15:1; St 21:17; St 26:24; St 46:3; Xh 14:13; Đnl 31:6; Is 43:1; Gr 46:27-28; Gr 51:46; Is 41:13; Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Ga 14:27; Lc 1:13; Lc 1:30; Lc 2:10; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20; Ga 14:27; Kh 1:17-18 Thánh GH Gioan Phaolô II đã sống đúng theo “châm ngôn” này dù những kẻ xấu đã từ muốn giết ngài.

Trong số những nhân vật nổi tiếng thế giới chống lại sự áp bức, bóc lột, chúng ta thấy họ có điểm chung là lòng can đảm: Bảo vệ chân lý, đấu tranh vì công lý và đòi nhân quyền. Cố NS Anh Bằng cũng đã viết ca khúc “Đừng Sợ Hãi” để động viên dân Việt, nhất là giới trẻ: “Đừng sợ hãi! Hãy vươn lên, tranh đấu cho quê hương Việt Nam, niềm tin bác ái! Đừng sợ hãi! Siết tay nhau, mang trái tim yêu thương Việt Nam vào đời!”

Sự giằng co giữa can đảm và sợ hãi là cuộc chiến nội tâm. Trong mỗi chúng ta cũng luôn có cuộc chiến tâm linh, có can đảm mới đủ sức chiến thắng. Cuộc chiến nào cũng cần sự can đảm. Người can đảm là người dám nói thẳng nói thật vì công ích, không xu nịnh, không bè phái, không luồn cúi,… Muốn can đảm thì không gì hơn là bám vào Thiên Chúa, vì Ngài là Sự Thật. (Ga 14:6) Bám vào Ngài bằng cách tín thác vào Ngài, mà tín thác thì phải tuân phục – vâng theo Thánh Ý Ngài.

Trình thuật 2 Sm 7:1-5, 8-12 cho biết: Khi vua được yên cửa yên nhà và Đức Chúa đã cho vua được thảnh thơi mọi bề, không còn thù địch nào nữa, vua nói với ngôn sứ Nathan: “Ông xem, tôi được ở nhà bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì ở trong lều vải.” Ông Nathan thưa với vua: “Tất cả những gì ngài ấp ủ trong lòng, xin ngài cứ đi mà thực hiện, vì Đức Chúa ở với ngài.” Nhưng ngay đêm ấy, có lời Đức Chúa phán với ông Nathan rằng: “Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là Đavít: Đức Chúa phán thế này: Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao?”

Và rồi Thiên Chúa giao ước: “Bây giờ ngươi hãy nói với tôi tớ Ta là Đavít như sau: Đức Chúa các đạo binh phán thế này: Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Israel. Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi; mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi. Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ cho dân Ta là Israel một chỗ ở, Ta sẽ định cư chúng, và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân gian ác cũng không còn tiếp tục áp bức chúng như thuở ban đầu, kể từ thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Israel. Ta sẽ cho ngươi được thảnh thơi, không còn thù địch nào nữa, Đức Chúa báo cho ngươi biết là Đức Chúa lập cho ngươi một nhà. Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi – một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền.” (2 Sm 7:8-12)

Tương tự, tất cả chúng ta cũng được Thiên Chúa thiết lập giao ước bất biến, trước sau như một. Vấn đề là chúng ta có can đảm tuân giữ huấn lệnh của Ngài hay không. Chính Chúa Giêsu đã khuyến cáo chúng ta về việc hoàn thiện, (Mt 5:48) nghĩa là chúng ta phải cố gắng nên thánh. Ngày xưa, chính Thiên Chúa đã nói dứt khoát: “Các ngươi PHẢI nên thánh và PHẢI thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh.” (Lv 11:44; Lv 20:7) Quá trình nên thánh cần phải rõ ràng, không thể nửa vời, vì Nước Trời không có loại công dân nhát đảm hoặc yếu bóng vía.

Như để củng cố chúng ta, Thiên Chúa tiếp tục giao ước: “Đối với nó, Ta sẽ là cha; đối với Ta, nó sẽ là con. Khi nó phạm lỗi, Ta sẽ sửa phạt nó bằng roi của người phàm, bằng đòn của con người. Tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó, như Ta đã cho rời khỏi Sa-un, kẻ Ta đã bắt rời khỏi mặt ngươi. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi.” (2 Sm 7:14-16) Đó là giao ước yêu thương, giao ước của lòng thương xót vĩnh cửu: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (1 Sb 16:34; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4; Tv 118:29; Tv 136:1-3; Tv 136:26)

Thánh Vịnh gia vui sướng tuyên xưng vì nhận ra tình yêu Thiên Chúa: “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài. Vâng con nói: Tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu, lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời.” (Tv 89:2-3) Chính Chúa đã phán từ ngàn xưa: “Ta đã giao ước với người Ta tuyển chọn, đã thề cùng Đavít, nghĩa bộc Ta, rằng: dòng dõi ngươi, Ta thiết lập cho đến ngàn đời, ngai vàng ngươi, Ta xây dựng qua muôn thế hệ. là Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con được cứu độ!” (Tv 89:4-5) Không chỉ thiết lập giao ước mà Ngài còn thề hứa – nghĩa là chắc chắn ứng nghiệm.

Cũng như Đavít, bất cứ ai tín thác vào Chúa thì sẽ biết cách chứng tỏ đức tin: “Ngài chính là Thân Phụ, là Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con được cứu độ!” (Tv 89:27) Sống thật chứ không nói suông, không giả hình, không khoác “chiếc áo sặc sỡ” như nhóm Biệt Phái. Như vậy mới thực sự dũng cảm, và chắc chắn người này sẽ được Thiên Chúa hứa “yêu thương đến muôn thuở và thành tín giữ giao ước.” (Tv 89:29) Thật tuyệt vời!

Cuối Mùa Vọng, ngọn nến Hy Vọng – Đức Cậy – được thắp sáng. Nhờ ngọn nến này mà chúng ta có thể thắp sáng lại ba ngọn nến kia, có thể chúng đã tắt hoặc chỉ còn leo lét. Đó là ba ngọn nến Hòa Bình, Niềm Tin và Tình Yêu. Sự đợi chờ của chúng ta sắp được thỏa mãn, vì Đấng Emmanuel đang đến rất gần. Thánh Phaolô nói: “Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giêsu Kitô. Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa.” (Rm 16:25-26) Theo lẽ thường, có biết thì mới tin, không biết thì khó tin hoặc không tin. Thánh Phaolô xác định: “Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giêsu Kitô. Amen.” (Rm 16:27)

Cuộc truyền tin được tường thuật trong Lc 1:26-38. Trinh Nữ Maria là người nhận tin, được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa. Tuổi U20, và chỉ là một thôn nữ bình thường nơi làng quê nhỏ bé, nhưng Đức Maria luôn nghiêm túc, thẳng thắn, can đảm, trọn niềm tín thác vào Chúa.

Khi người chị họ Êlisabét mang thai ngôn sứ Gioan Tẩy Giả được sáu tháng, Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến làng Nadarét, miền Galilê, gặp trinh nữ Maria đã đính hôn với chàng Giuse, thuộc hoàng tộc Đavít. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” Nghe vậy, trinh nữ Maria rất bối rối vì không hiểu thế là thế nào. Sự khiêm nhu không cho phép thục nữ Maria dám nhận mình là thánh nhân, mà chỉ nhận mình là nữ tỳ của Thiên Chúa mà thôi. Nhưng sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”

Điều đó càng lạ lùng hơn đối với một người đã khấn đức khiết tịnh. Vì thế, trinh nữ Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” Sự thường là thế, nhưng với trinh nữ Maria lại là điều khác thường, là mầu nhiệm, là đặc ân. Trinh nữ Maria khiêm nhu, chẳng nghĩ mình cao trọng gì đâu. Sứ thần giải thích cặn kẽ và chứng minh: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

Trinh nữ Maria luôn tin vào quyền năng của Thiên Chúa, không chút nghi ngờ, nay lại được giải thích như vậy thì chẳng còn gì phải âu lo hoặc đắn đo. Trinh nữ Maria OK ngay, và nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Trong lời “xin vâng” của Đức Maria còn bao hàm các nhân đức khác – cả đối thần và đối nhân.

Chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người, và ở cùng chúng ta. Nhịp cầu của Ơn Cứu Độ khởi sự, Đức Maria trở nên Đấng hiệp thông trong công cuộc cứu độ của Thiên Chúa, trở thành Thân Mẫu của Đấng Cứu Thế. Chính bà Êlidabét là người đầu tiên tuyên bố Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:43)

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con luôn đổi mới, trung thực và trọn niềm tín thác. Xin giúp chúng con luôn sẵn sàng và mau mắn đáp lại tiếng Ngài gọi mời cộng tác như Đức Mẹ đã hành động. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét