12 điều mà người Công giáo phải trả lời được
Ngày 08/03/2011- Deal Hudson
Kính gửi đến quý độc giả bài sau đây để thêm chất liệu suy nghĩ về đời sống đức tin chúng ta.
Tự do ngôn luận là một điều cao quý. Tiếc rằng chúng ta phải trả một giá rất đắt cho nó: Khi dân chúng được quyền tự do muốn nói gì thì nói, họ đôi khi dùng sự tự do đó để nói những điều ngớ ngẩn. Và đó là 12 điều mà chúng tôi sẽ bàn ở đây.
Có
một ít điều được nhắc đi nhắc lại, có những điều khác thì họa hiếm mới được nhắc
đến, trong khi những người đề xướng những sai lầm này tự do quảng bá chúng,
chúng ta là người Công Giáo có nhiệm vụ phải trả lời.
Người
ta dùng lý luận này rất nhiều khi họ không đồng ý với một câu nói và không có
cách nào khác để chống đỡ tư tưởng của mình. Vậy, nếu không có gì là đúng cho tất
cả mọi người, thì họ muốn tin gì thì tin, và không thể nói gì để làm họ đổi ý cả.
Nhưng
hãy nhìn lại câu nói "Không có gì là chân lý tuyệt đối cả" một lần nữa.
Có phải chính câu này đã khẳng định nó là điều tuyệt đối không? Nói cách khác,
nó áp dụng ít qui luật hay tiêu chuẩn cho mọi người -- chính là điều mà những
người theo tương đối nói là không thể được. Họ đã hóa giải lập luận của họ bằng
cách đưa ra lập luận của họ.
Một
vấn đề khác với câu này là không có một người theo thuyết tương đối nào lại thật
sự tin điều đó. Nếu có ai nói với bạn, "Không có chân lý tuyệt đối nào cả,"
và bạn thụi vào bụng người đó, người đó có lẽ sẽ nổi nóng. Nhưng theo niềm tin
của anh ta, anh ta phải nhận rằng đấm vào bụng ai có thể sai đối với anh, nhưng
có thể đúng đối với bạn.
Khi
đó họ sẽ trở lại với một bổ túc cho câu nói nguyên thủy là: "Bao lâu bạn
không làm đau người khác, bạn tự do muốn làm gì và tin gì tùy ý." Nhưng
đây chỉ là một sự phân biệt tùy ý (cũng như là câu nói tuyệt đối khác). Ai nói
là tôi không được làm đau người khác? Cái gì là đau? Luật này từ đâu mà đến?
Nếu
câu này được đưa ra dựa theo quyền của cá nhân, thì không có nghĩa gì đối với
người khác. "Ðừng làm hại" chính nó là một thỉnh cầu đối với một cái
gì cao trọng hơn - một loại phẩm giá chung của con người. Nhưng câu hỏi lại là
phẩm giá từ đâu đến.
Như
bạn có thể thấy, càng đi sâu vào những câu hỏi này, thì bạn càng hiểu biết rằng
quan niệm về lẽ phải và chân lý không phải tùy ý, nhưng dựa vào một vài chân lý
cao quý và phổ quát ngoại tại -- một chân lý được viết trong chính bản tính của
chúng ta. Chúng ta có thể không biết nó trọn vẹn, nhưng không thể chối rằng
không có chân lý đó.
Nếu
bạn không nghe đến câu này vài chục lần, bạn không rút ra được bao nhiêu. Ðáng
buồn là những người nói lên điều này thường lại là Kitô hữu (ít ra trên danh
nghĩa).
Những
trở ngại với quan điểm này thật không phức tạp gì cả. Kitô giáo đưa ra một chuỗi
những lời xác nhận về Thiên Chúa và con người: Rằng chính Chúa Giêsu Nadareth
là Thiên Chúa, và Người đã chết và sống lại -- tất cả để chúng ta được giải
thoát khỏi tội lỗi. Mọi tôn giáo khác trên thế giới phủ nhận tất cả những điều
này. Cho nên, nếu Kitô giáo là đúng, thì đạo này nói cho thế gian biết một chân
lý sống còn -- một chân lý mà tất cả các tôn giáo khác phủ nhận.
Chỉ
điều này thôi đã làm cho Kitô giáo thành duy nhất.
Nhưng
nó không ngừng ở đó. Hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng Thánh Gioan.
"Thầy
là đường, sự thật, và sự sống; không ai có thể đến với Chúa Cha, mà không qua
Thầy."Trong Kitô giáo, chúng ta có trọn sự mạc khải của Thiên Chúa cho
nhân loại. Ðúng là tất cả các tôn giáo chứa đựng một phần chân lý -- số lượng
thay đổi tùy theo tôn giáo. Tuy nhiên, nếu chúng ta khao khát mong muốn theo và
thờ phượng Thiên Chúa, chúng ta có nên làm theo cách Ngài chỉ dạy không?
Nếu
Chúa Giêsu quả thực là Thiên Chúa, thì chỉ Kitô giáo chứa đựng hoàn toàn chân
lý này.
Ðây
là một luận điệu thông thường, người ta có thể thấy khắp nơi trên Internet (nhất
là những websites vô thần và tự do tư tưởng). Một bài trên website của Vô Thần
ghi rằng "Ðiều lạ thường về Thánh Kinh không phải vì tác giả là Thiên
Chúa; chính là những mâu thuẫn được bịa đặt vô nghĩa mà người ta có thể tin là
được Thiên Chúa thượng trí viết ra."
Những
câu như thế thường được kèm theo một danh sách những câu "mâu thuẫn"
trong Thánh Kinh. Tuy nhiên, những điều cho là mâu thuẫn có ít sai lầm đơn giản.
Thí dụ, người phê bình không đọc những sách khác nhau trong Thánh Kinh theo thể
văn mà các sách đó được viết. Xét cho cùng, Thánh Kinh là một sưu tập nhiều loại
văn tự... lịch sử, thần học, thơ phú, và khải huyền, v.v... Nếu chúng ta đọc
các sách này cùng một cách cứng ngắc như chúng ta đọc báo ngày nay, thì chúng
ta sẽ bị bối rối kinh khủng.
Và
danh sách "các mâu thuẫn" trong Thánh Kinh minh xác điều này. Thí dụ
lấy điều đầu tiên trong danh sách Vô Thần của Mỹ:
"Hãy
nhớ ngày Sabát, và giữ nó cách thánh thiện." (Xuất Hành 20, 8)
So
với "Người thì cho rằng ngày này trọng hơn ngày khác; người khác lại cho rằng
ngày nào cũng như nhau. Vậy mỗi người phải xác tín trong thâm tâm mình."
(Rm 14, 5)
Người
vô thần la lên: Ðó! rõ ràng là một mâu thuẫn. Nhưng phê bình gia quên không nhắc
đến điều mà mọi Kitô hữu đều biết: Khi Ðức Kitô thiết lập Giao Ước Mới, thì những
đòi hỏi về nghi lễ của Giao Ước Cũ được làm trọn (và qua đi). Vì thế việc những
luật lệ trong Cựu Ước về nghi lễ không còn được ứng dụng cho dân của Tân Ước là
điều hoàn toàn hợp lý.
Nếu
nhà phê bình hiểu giáo lý đơn giản này của Kitô giáo, thì anh đã không mắc phải
một lỗi sơ đẳng như thế.
Ðiều
kế tiếp trong danh sách của Vô Thần Mỹ cũng có khuyết điểm tương tự:
"...trái
đất mãi mãi trường tồn." (Giảng Viên 1, 4)
So
với:
"...các
nguyên tố vật chất sẽ cháy tiêu tan, trái đất và các công trình trên đó sẽ bị
thiêu huỷ." (2 Pr 3, 10)
Vậy
Cựu Ước cho rằng trái đất sẽ tồn tại đến muôn đời, trong khi Tân Ước nói rằng
nó rồi sẽ bị hủy diệt. Chúng ta dung hòa hai câu này thế nào? Thực ra rất dễ, lại
theo sự hiểu biết về thể văn mà theo hai sách này được viết ra.
Thí
dụ Sách Giảng Viên so sánh cái nhìn thế tục và tôn giáo - và hẩu hết sách này
viết theo quan niệm thế tục. Ðó là lý do tại sao chúng ta thấy những dòng như,
"Bánh được làm cho vui, và rượu làm cho cuộc đời thêm tươi, và tiền bạc giải
quyết được tất cả" (Gv 10, 19).
Tuy
nhiên, ở cuối sách, tác giả đưa ra một khúc quanh, không cần tất cả "sự
khôn ngoan" ông tặng và bảo chúng ta "Kính sợ Thiên Chúa, và tuân giữ
giới răn Ngài; vì đó là tất cả nhiệm vụ của con người.." (12, 13).
Nếu
một độc giả ngưng đọc trước khi đến cuối, thì người ấy sẽ bối rối như phê bình
gia Vô Thần Mỹ. Tuy nhiên, vì quan điểm đó nảy ra khái niệm về một thế giới trường
tồn bị gạt bỏ ở hàng cuối cùng của sách, hiển nhiên là không có mâu thuẫn với
điều được mạc khải sau đó ở trong Tân Ước. (Và đây chỉ là một cách để trả lời tố
cáo về sự khác biệt này)
Những
"mâu thuẫn" khác giữ Cựu và Tân Ước có thể được trả lời cách tương tự.
Hầu như với điểm nào, nhà phê bình cũng bị lầm lẫn về mạch văn, không để ý đến
thể văn, và không để dành chỗ nào cho việc cắt nghĩa cách hợp lý.
Không
một Kitô hữu biết suy nghĩ nào phải bối rối về những danh sách này.
Luận
điệu này được dùng thường xuyên, và rất gian xảo. Khi một người nhận mình là
"người tốt," người đó thật sự ám chỉ rằng họ "không phải là một
người xấu." -- người xấu là người sát nhân, hiếp dâm, và trộm cắp. Phần
đông người ta không cần cố gắng mấy để tránh các tội này, và đó là tư tưởng:
Chùng ta muốn làm một số việc tối thiểu để được thông qua. Ðiều đó không giống
Ðức Kitô lắm, phải không?
Nhưng
bỏ qua trạng thái tâm lý đó, có một lý do quan trọng để người Công Giáo đền Nhà
Thờ hơn là chỉ để thực hành việc đi thêm một dặm nữa. Thánh Lễ là viên đá góc của
đời sống đức tin của chúng ta vì một điều nằm ở trọng tâm của nó: Bí Tích Thánh
Thể. Ðó là nguồn mạch của tất cả đời sống cho người Công Giáo, là những người
tin rằng bánh và rượu trở nên Mình và Máu thật của Ðức Kitô. Chứ không phải chỉ
là biểu tượng của Thiên Chúa, nhưng là Thiên Chúa hiện diện cách thể lý với
chúng ta bằng một phương thế mà chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm được bằng cầu
nguyện.
Chúa
Giêsu phán, "Thật, Thật, Ta bảo các người, trừ khi các người ăn thịt Con
Người và uống máu Người, các người không có sự sống trong các người; ai ăn thịt
và uống máu Ta có sự sống đời đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại trong ngày
sau hết" (Ga 6,53-54). Chúng ta tôn trọng lệnh của Chuá Giêsu và tin tường
vào lời hứa của Người mỗi lần chúng ta đi dự Thánh Lễ.
Hơn
nữa, bí tích Thánh Thể, cùng với tất cả các bí tích khác, chỉ dành cho những
người ờ trong Hội Thánh. Là phần tử của Hội Thánh, nhiệm thể hữu hình của Ðức
Kitô trên thế gian, đời sống chúng ta liên hệ mật thiết với đời sống của người
khác trong Hội Thánh. Liên hệ cá nhân của chúng ta đối với Thiên Chúa thật quan
trọng, nhưng chúng ta cũng có nhiệm vụ sống như những phần tử trung thành của
nhiệm thể Ðức Kitô. Là "người tốt" mà thôi chưa đủ.
Như
một cựu mục sư Baptist, tôi có thể hiểu việc chống xưng tội của người Tin Lành
(họ hiểu về chức linh mục một cách khác). Nhưng một người Công Giáo mà nói một
điều như thế... thì thật là thất vọng. Tôi nghi rằng bản tính loài người là thế,
người ta thường không thích nói cho người khác biết tội mình, nên đưa ra lý do
để biện minh tại sao không làm thế...
Bí
Tích Giải Tội đã có với chúng ta từ đầu, từ chính Lời của Ðức Kitô:
"Chúa
Giêsu lại bảo các ông, 'Bình an cho các con! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy
cũng sai các con.' Nói rồi, Người thổi hơi vào các ông và bảo các ông, 'Các con
hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Nếu các con tha tội cho ai, thì người ấy được
tha; nếu các con cầm buộc ai, thì người ấy bị cầm buộc.'” (Ga 20:21-23)
Nên
ghi nhận rằng Chúa Giêsu ban cho các tông đồ quyền tha tội.. Tất nhiên, họ
không biết phải tha tội nào nếu họ không được nói cho biết là tội nào chúng ta
phạm.
Việc
xưng tội cũng được chứng minh trong thư thánh Giacôbê:
Có
ai trong anh em đau ốm? Hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh, và hãy để họ cầu nguyện
trên người ấy, xức dầu cho người ấy nhân danh Chúa; Và lời cầu nguyện do đức
tin sẽ cứu người bệnh; và Chúa sẽ nâng người ấy dậy, và nếu người ấy đã phạm tội,
thì sẽ được Chúa thứ tha. Anh em hãy xưng tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để
được chữa lành. Vì lời cầu xin tha thiết của người công chính có hiệu lực rất lớn
lao. (Gcb 5,14-16)
Ðiều
đáng quan tâm là không có chỗ nào Thánh Giacôbê (hay Chúa Giêsu) bảo chúng ta
là chỉ xưng tội với Thiên Chúa, nhưng các Ngài có vẻ nghĩ là ơn tha tội đến bằng
cách xưng tội công khai.
Và
lý do thật dễ hiểu. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta làm tổn thương không những
mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa, mà còn với Nhiệm Thể Người, là Hội
Thánh (vì tất cả mọi người Công Giáo nối kết với nhau như con cùng một Cha).
Cho nên khi chúng ta xin lỗi, chúng ta phải xin lỗi tất cả mọi nhóm liên hệ -
Thiên Chúa và Hội Thánh.
Hãy
nghĩ về xưng tội cách này. Thử tưởng tượng rằng bạn vào một tiệm và ăn cắp vài
món hàng. Sau đó, bạn áy náy và hối hận về hành động tội lỗi này. Giờ đây, bạn
có thể cầu xin Thiên Chúa tha cho bạn vì đã phạm giới răn của Ngài. Nhưng còn một
phần tử khác liên hệ; bạn phải trả lại món hàng và đền bù cho hành động của bạn.
Ðối
với Hội Thánh cũng thế. Trong toà giải tội, linh mục đại diện cho Thiên Chúa và
Hội Thánh, vì chúng ta có tội với cả hai. Và khi ngài công bố lời tha tội, thì
sự tha thứ chúng ta lãnh nhận được trọn vẹn.
Khi
một người nghĩ đến Thành Vatican, họ liên tưởng ngay đến một vương quốc giàu
sang, với nơi ở như cung điện cho Ðức Giáo Hoàng và các hòm đầy vàng cất ở các
xó nhà, chưa kể đến các sưu tầm nghệ thuật và đồ cổ vô giá. Nhìn đến Vatican
cách này thì dễ thấy tại sao một số người trở thành bực tức vì những điều họ
nghĩ là sự khoe khoang tài sản cách phô trương và phí phạm.
Nhưng
sự thật thì hoàn toàn khác. Các dinh thự chính gọi là "Ðiện Vatican"
không phải được xây làm chỗ ở xa hoa của Ðức Giáo Hoàng. Thực ra, khu vực gia
cư tương đối nhỏ. Phần lớn điện Vatican được dùng vào việc nghệ thuật, khoa học,
điều hành công việc Hội Thánh, và điều hành chung của điện. Có một số đông nhân
viên của Hội Thánh và hành chánh sống trong điện Vatican cùng ÐTC, làm cho nó
thành trụ sở chính của Hội Thánh.
Còn
về những sưu tầm nghệ thuật, thực sự là sưu tập quý nhất trên thế giới, Vatican
coi đó như một "kho tàng không thể thay thế được," nhưng không phải về
diện tài chánh. ÐTC không làm chủ những tác phẩm nghệ thuật này, và nếu ngài muốn,
ngài cũng không được phép bán chúng; chúng chỉ được đặt dưới sự săn sóc của Toà
Thánh. Các tác phẩm này không đem nguồn lợi đến cho Hội Thánh, mà ngược lại,
Tòa Thánh phải đầu tư một số tài nguyên không nhỏ để bảo tổn các sưu tầm này.
Sự
thật của vấn đề này là Tòa Thánh có một ngân sách khá eo hẹp Nếu thế thì tại
sao lại giữ những nghệ phẩm này? Vì tin vào một trong các sứ mệnh của Hội Thánh
là một động lực truyền bá văn minh trong thế giới. Cũng như các thầy dòng thời
trung cổ cẩn thận chép lại các sách cổ để cung cấp cho các thế hệ tương lai --
nếu không thì những văn bản này không còn nữa -- Hội Thánh tiếp tục bảo trì nghệ
thuật để chúng không bị mai một với thời gian. Trong nền văn hóa sự chết ngày
nay khi mà từ "văn minh" chỉ được dùng cách lỏng lẻo, sứ vụ truyền bá
văn minh của Hội Thánh ngày nay còn quan trọng hơn bao giờ hết.
Ngày
nay có lẽ bạn đã nghe lập luận này nhiều rồi, nhất là trong vụ gương mù về lạm
dụng tính dục trong Hội Thánh. Ai cũng muốn tìm giải pháp cho vấn đề, trong đó
có người đưa ra những tư tưởng ngoài đức tin Công Giáo (như cho phụ nữ, hay mở
cửa cho đống tính luyến ái làm linh mục, v.v...). Nhiều người đổ tội cho Hội
Thánh vì quá cứng rắn về đức tin và không muốn thử những điều mới.
Sự
thật là nhiều tư tưởng về cải cách được đề ra khắp nơi ngày nay không có gì là
mới mẻ cả. Chúng đã được đề ra từ lâu, và Hội Thánh đã quan tâm đến chúng. Thực
ra, Hội Thánh đã bỏ cả đời ra nghiên cứu cẩn thận các tư tưởng và quyết định rằng
tư tưởng nào hợp với luật Thiên Chúa và tư tưởng nào không. Hội Thánh đã gạt ra
hết lạc giáo này đến lạc giáo khác trong khi cẩn thận xây dựng giáo lý Ðức Tin.
Chúng ta không ngạc nhiên gì khi thấy có cả ngàn giáo hội Kitô khác ngày nay --
tất cả các giáo hội đó đều một thời có "những tư tưởng mới" mà Hội
Thánh cho là ngoài Kho Tàng Ðức Tin.
Hội
Thánh có môt nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ sự ven toàn của Ðức Tin. Hội Thánh
không bao giờ loại bỏ ngay các tư tưởng như một số người chống đối kết án,
nhưng đã có hai ngàn năm cầu nguyện và nghiên cứu đằng sau những gì phải tin và
phải giữ gìn là chân thật.
Ðiều
này không có nghĩa là chúng ta không bao giờ bất đồng ý kiến với nhau ở điểm
gì. Luôn luôn có chỗ để thảo luận làm thế nào để đào sâu sự hiểu biết của chúng
ta về chân lý -- thí dụ, làm sao để cải tiến các chủng viện hay các tương quan
giữa giáo sĩ và giáo dân-- tất cả đều trong phạm vi của những nguyên tắc Ðức
Tin.
Khi
hành vi đồng tính luyến ái được chấp nhận rộng rãi hơn trong nền văn hóa của
chúng ta, thì sẽ có nhiều áp lực hơn giữa các Kitô hữu để giải thích sự cấm
đoán điều này cách tỏ tường trong Thánh Kinh. Hiện thời tiêu chuẩn của phe cấp
tiến là cho rằng Thánh Kinh -- khi hiểu đúng -- không cấm những hành vi đồng
tính.
Nhưng
luận điệu này hoàn toàn trái ngược với những câu rõ ràng trong cả Cựu Ước lẫn
Tân Ước. Các câu đầu tiên dĩ nhiên là câu chuyện thời danh về Sođôm và Gômôra.
Nếu bạn nhớ lại chuyện hai thiên sứ được Thiên Chúa sai đến thăm ông Lót:
"Nhưng
khi các ngài đi nằm thì dân trong thành, tức là người Sôđôm, bao vây nhà, từ trẻ
đến già, tất cả mọi người không trừ ai. Chúng gọi ông Lót và bảo: "Những
người vào nhà ông đêm nay đâu rồi? Hãy đưa họ ra cho chúng tôi chơi." Ông
Lót ra trước cửa gặp chúng, đóng cửa lại sau lưng," rồi nói:"Thưa anh
em, tôi xin anh em đừng làm bậy. Đây tôi có hai đứa con gái chưa ăn ở với đàn
ông, tôi sẽ đưa chúng ra cho anh em; anh em muốn làm gì chúng thì làm, nhưng
còn hai người này, xin anh em đừng làm gì họ, vì họ đã vào trọ dưới mái nhà
tôi." Chúng đáp:"Xê ra! Tên này là một kiều dân đến đây trú ngụ mà lại
đòi xét xử à! Chúng tao sẽ làm dữ với mày hơn là với những tên kia!" Họ xô
mạnh ông Lót và xông vào để phá cửa. Nhưng hai người khách đưa tay kéo ông Lót
vào nhà với mình, rồi đóng cửa lại.(STK 19:4-10)
Thông
điệp của đoạn này thật rõ ràng. Các người Sôđôm là người đồng tính luyến ái muốn
liên hệ tính dục với những người thanh niên ở trong nhà. Ông Lót cho họ con gái
ông, nhưng họ không thích. Ít giờ sau, Sôđôm bị Thiên Chúa thiêu hủy để đền tội
dân chúng phạm -- đó là các hành vi đồng tính luyến ái. Sự thật này được Tân Ước
xác nhận:
Như
Sôđôm, Gômôra và các thành lân cận cũng có cùng một thái độ như họ, buông tuồng
trong việc tà dâm, và chạy theo những chuyện xác thịt trái tự nhiên, thì đã được
dùng để làm gương, bằng cách chịu phạt trong lửa đời đời. (Giuđa 7)
Nhưng
không phải chỉ có những đoạn này trong Thánh Kinh lên án hành vi đồng tính. Cựu
Ước còn có một câu khác lên án cách rõ ràng: "Ngươi không được nằm với đàn
ông như nằm với đàn bà: đó là điều ghê tởm." (Lv 18, 22).
Và
những câu này không chỉ được giữ trong Cựu Ước mà thôi.
"Vì
lý do đó mà Thiên Chúa đã để mặc họ theo dục tình đồi bại. Phụ nữ của họ đã đổi
những liên hệ tự nhiên lấy những liên hệ trái tự nhiên. Ðàn ông cũng thế, bỏ
liên hệ tự nhiên với phụ nữ để nôn nao thèm muốn lẫn nhau. Ðàn ông làm việc tồi
bại với đàn ông, và như thế chuốc vào thân hình phạt xứng với sự suy đồi của họ."
(Rm 1,26-27)
Thật
khó vô cùng cho những Kitô hữu cấp tiến giải thích câu này cách ngược lại. Ở
đây không chỉ nói đến việc dâm loàn hay hiếp dâm của người đống tính; nhưng
Thánh Phaolô chống lại bất cứ liên quan đồng tính nào (mà ngài diễn tả là
"trái tự nhiên," "tồi bại" và "đồi bại").
Các
Kitô hữu cấp tiến bị trói tay. Sau cùng, một người làm thế nào mà dung hòa đồng
tính luyến ái với Thánh Kinh? Xem ra giải pháp của họ là lấy đi quyền về luân
lý của Thánh Kinh, và giải thích vòng vo để tránh thông điệp thật rõ ràng này.
Ðúng
--Sách Giáo Lý nói rất thẳng, "Con người có quyền hành động theo lương tâm
và sự tự do để tự mình quyết định về luân lý. "Không được cưỡng bách ai
hành động trái với lương tâm của họ. Cũng không được ngăn cản họ hành động theo
lương tâm, đặc biệt là trong những vấn đề tôn giáo " (1782). Giáo huấn này
là trọng tâm của điều gọi là có ý chí tự do.
Nhưng
điều đó không có nghĩa là lương tâm chúng ta không phải chịu trách nhiệm hay có
thể gạt luật của Thiên Chúa ra ngoài. Ðây là điều mà Giáo Lý gọi là có "một
lương tâm được huấn luyện chu đáo."
Sách
Giáo Lý trao cho lương tâm con người một trách nhiệm nặng nề:
"Lương
tâm luân lý, hiện diện trong lòng người, ra lệnh vào lúc thích hợp cho con người
làm lành lánh dữ.... Lương tâm chứng nhận quyền bính của chân lý bằng cách chiếu
theo Sự Thiện Hảo tối thượng (Thiên Chúa), là Ðấng mà con người được thu hút và
đón nhận mệnh lệnh. Khi nghe theo tiếng lương tâm, người khôn ngoan có thể nghe
tiếng Thiên Chúa đang nói" (1777).
Nói
cách khác, lương tâm chúng ta không phải chỉ là "cái gì chúng ta cảm thấy
đúng"; mà là những gì chúng ta phán quyết là đúng dựa theo những điều
chúng ta biết là giáo huấn của Thiên Chúa và Hội Thánh. Và để phán đoán, chúng
ta có nhiệm vụ học hỏi và cầu nguyện rất cẩn thận về những giáo huấn này. Sách
Giáo Lý có trọn một phần dành riêng cho việc huấn luyện lương tâm cách kỹ lưỡng
-- và nó quan trọng thế nào trong việc quyếtb định đúng.
Và
sau cùng, dù đúng hay sai, chúng ta vẫn chịu trách nhiệm về việc chúng ta làm:
"Lương tâm giúp chúng ta gánh nhận trách nhiệm đối với việc chúng ta
làm" (1781). Khi được đào luyện đúng, nó giúp chúng ta thấy khi nào chúng
ta làm sai và cần được tha thứ tội lỗi chúng ta.
Bằng
cách cố gắng để có một lương tâm được đào luyện hoàn toàn, chúng ta thật sự cảm
nghiệm được sự tự do lớn lao, vì chúng ta được lôi cuốn lại gần chân lý vô cùng
của Thiên Chúa. Nó không phải là một gánh nặng hay là một cái gì ngăn cản chúng
ta làm điều chúng ta thích; nhưng là một sự hướng dẫn giúp chúng ta làm những
gì là đúng. "Việc giáo dục lương tâm đảm bảo sự tự do và đem lại bình an
trong tâm hồn" (1784).
Phương
Pháp Tự Nhiên (PPTN) có kẻ thù mọi mặt. Có người tin rằng đó là một cách ngừa
thai khác thiếu thực tế (mà cách nào họ cũng không cho là có tội) trong khi người
khác lại cho rằng nó cũng xấu chẳng khác gì ngừa thai… PPTN phải đi giữa ranh
giới của hai cực đoan.
Trước
nhất, vấn đề chính của việc ngừa thai là nó ngược lại với bản chất của cơ thể
chúng ta -- và cách chung sự tự nhiên. Mục đích của nó là tách rời hành động
(tính dục) ra khỏi hậu quả (có thai), chính là hạ sự thánh thiện của tính dục
xuống thành sự theo đuổi lạc thú thuần túy.
PPTN,
khi dùng vì lý do chính đáng, thì còn hơn là một dụng cụ được dùng để xem đôi
hôn nhân có phương tiện (dù là tài chánh, thể lý, hay tâm lý) để đón nhận một đứa
trẻ vào cuộc đời của họ. Nó liên quan đến việc hiểu biết chính thân thể của
mình, cẩn thận lưu tâm đến hoàn cảnh của bạn trong cuộc đời, thảo luận vấn đề với
bạn đời, và trên hết là cầu nguyện. Thay vì thoát ly thực trạng đầy đủ của tính
dục, bạn tham gia vào đó với một sự hiểu biết hơn về mọi khía cạnh liên quan.
Những
người ủng hộ việc hạn chế sinh sản chỉ vào những người không thể cố gắng có
thêm con, hay sức khỏe có thể bị nguy hiểm vì mang thai thêm. Nhưng đó là những
lý do hoàn toàn chính đáng để dùng PPTN -- những hoàn cảnh mà phương pháp này
hoàn toàn hiệu quả -- và Hội Thánh cho phép dùng nó.
Những
người khác nghĩ rằng dùng bất cứ phương thức nào để giới hạn số con trong gia
đình là đóng vai Thiên Chúa, hơn là để Ngài cung cấp cho chúng ta như Ngài thấy
cần. Ðúng là chúng ta phải tin tưởng vào Thiên Chúa và luôn chấp nhận sự sống
Ngài ban cho chúng ta, nhưng chúng ta không phải hoàn toàn buông xuôi về phương
diện này.
Thí
dụ, thay vì phung phí tiền bạc lung tung và nói rằng "Thiên Chúa sẽ cung cấp,"
các gia đình cẩn thận dự trù ngân sách tài chánh và cố gắng không tiêu xài quá
khả năng của mình. PPTN cũng giống như ngân sách đó, giúp chúng ta suy nghĩ đến
hoàn cảnh của chúng ta trong cuộc đời và hành động theo đó trong tinh thần cầu
nguyện. Biết mình và dùng trí khôn cùng ý chí tự do, thay vì thụ động mong chờ
Thiên Chúa lo liệu mọi sự, là một phần của bản tính con người. Chúng ta được mời
gọi để trở nên những người quản lý tốt các hồng ân Chúa ban; chúng ta phải cẩn
thận đừng coi thường các ân huệ này.
Trong
khi đây là một huyền thoại thông thường nhất mà người Công Giáo hiểu về đức tin
của họ, nó cũng là một điều dễ đánh tan nhất. Sách Giáo lý không chẻ một chữ
nào khi nói về phá thai: nó được liệt kê cùng với tội giết người trong các tội
phạm đến điều răn thứ năm, "Chớ giết người."
Những
đoạn sau nói rõ: "Sự sống con người phải được tôn trọng và bảo vệ cách tuyệt
đối từ giây phút thụ thai" (2270). "Ngay từ thề kỷ thứ nhất Hội Thánh
đã xác nhận sự dữ về luân lý của mọi cuộc phá thai cố tình. Giáo huấn này không
thay đổi và sẽ không bao giờ thay đổi" (2271). "Hợp tác chính thức
vào việc phá thai là tội trọng. Hội Thánh gán hình phạt vạ tuyệt thông cho các
tội phạm đến sự sống con người" (2272).
Có
thể nói rõ ràng hơn thế nữa. Tuy nhiên, có những người sẽ lý luận rằng là người
"tự do chọn lựa" không có nghĩa là ủng hộ phá thai; nhiều người cho rằng
phá thai là sai, nhưng không muốn áp đặt tư tưởng của mình trên người khác.
Ðó
là lại là luận "điều đúng cho bạn có thể không đúng cho tôi" mà thôi.
Hội Thánh cũng có câu trả lời cho lập luận này: "Những quyền bất khả xâm
phạm của con người phải được xã hội dân sự và chính quyền nhìn nhận và tôn trọng.
Những quyền này không lệ thuộc vào các cá nhân, hay cha mẹ, cũng không phải là
một nhân nhượng của xã hội và của quốc gia, nhưng thuộc về bản tính con người
và gắn liền với con người do chính hành động sáng tạo của Thiên Chúa mà từ đó
sinh ra con người" (2273)...
Tính
linh thiêng của sự sống là một chân lý phổ quát không thể coi thường được.
Khuyên ai phá thai, hay ngay cà bỏ phiếu cho các chính trị gia cổ võ việc phá
thai, là một tội trọng, vì nó đưa người khác đến tội trọng - là điều mà Sách
Giáo Lý gọi là làm gương mù (2284).
Hội
Thánh mạnh dạn và dứt khoát chống phá thai, và chúng ta là người Công Giáo cũng
phải khẳng định lập trường của chúng ta như thế.
Khi
xã hội trở nên mê hoặc nhiều hơn với những hiện tượng siêu hình, chúng ta có thể
chắc sẽ thấy thêm những vụ nhận rằng "nhớ lại kiếp trước". Quả thật,
bây giờ có những tổ chức giúp bạn trở lại các kiếp trước của bạn bằng cách dùng
thôi miên.
Trong
khi điều này có thể thuyết phục một số người, chắc chắn rằng không thuyết phục
được những người quen thuộc với thôi miên. Hầu như ngay từ đầu, các nhà khảo cứu
đã ghi nhận rằng các bệnh nhân ngủ mê trong lúc bị thôi miên thường thêu dệt những
câu chuyện ký ức phức tạp, mà sau đó được tỏ ra là không có thật. Những nhà chữa
trị danh tiếng đã biết rõ hiện tượng này, và cẩn thận cân nhắc những gì bệnh
nhân nói khi bị thôi miên.
Ðáng
buồn là đây không phải là trường hợp đối với những người muốn tìm "bằng chứng"
của luân hồi. Có lẽ thí dụ điển hình nhất của sự bất cẩn này là trường hợp nổi
tiếng của Bridey Murphy. Nếu bạn không biết chuyện đó, thì đây là một tóm lược:
Năm 1952, một bà nội trợ ở Colorado tên là Virginia Tighe được thôi miên. Bà bắt
đầu nói giọng Ái Nhĩ Lan và cho rằng có thời bà là một phụ nữ tên là Bridey
Murphy sống ở Cork, Ái Nhĩ Lan.
Câu
chuyện của bà ta được viết thành cuốn sách bán chạy nhất, "Cuộc tìm kiếm
Bridey Murphy," và được nhiều chú ý. Các ký giả lục soát khắp Ái Nhĩ Lan để
tìm người nào, hay chi tiết nào có thể xác nhận việc trở lại kiếp trước này.
Trong khi không tìm được gì, trường hợp của Bridey Murphy tiếp tục được dùng để
chống đỡ các lý luận về luân hồi.
Ðây
là một điều bẽ bàng, vì Virginia Tighe bị phanh phui là giả trá vài chục năm
qua. Thử nghĩ xem, các bạn bè của Virginia nhớ lại trí tưởng tượng linh động của
bà, và khả năng bày đặt những câu chuyện phức tạp (thường xoay quanh tài nhái
giọng mà bà ta đã đạt đến mức hoàn bị). Không những chỉ có thế, mà bà còn rất
thích Ái Nhĩ Lan, một phần vì tình bạn với một phụ nữ người Ái mà tên họ là - bạn
đoán xem - Bridie.
Hơn
nữa, Virgiania thêm vào câu chuyện trong lúc bị thôi miên nhiều điều khác nhau
từ chính đời sống của bà (mà không cho nhà thôi miên biết sự song đôi này). Thí
dụ, Bridey diễn tả về "Bác Plazz," mà các nhà nghiên cứu cho là cách nói
sai của người Gaelic "Bác Blaise." Tuy thế họ bị cụt hứng khi khám
phá ra rằng Virginia có một người bạn khi còn nhỏ mà bà gọi là "Bác
Plazz."
Các
nhà nghiên cứu ngạc nhiên khi Virginia nhảy điệu jig của Ái Nhĩ Lan trong một lần
bị thôi miên. Làm sao mà một bà nội trợ ở Colorado lại học được cách nhảy jig?
Ðiều huyền bí này được giải quyết khi người ta biết rằng Virginia đã học điệu
nhảy này khi còn bé.
Như
trường hợp Bridey Murphy cho thấy, những việc nhận là trở lại tiền kiếp luôn
luôn gợi cảm hơn thực tế. Cho đến ngày nay, chưa có một trường hợp nào chứng
minh được là có một người nhớ lại được kiếp trước. Chắc chắn là có nhiều câu
chuyện đã được kể lại dưới sự kiểm soát của một nhà thôi miên, tuy nhiên, bằng
chứng của luân hồi (giông như Nàng Tiên Răng) vẫn tiếp tục tránh né chúng ta.
(GLV
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét