Mar 14, 2021
- Chúa nhật IV
Mùa Chay năm B
Dấu chỉ được cứu sống
Các Bạn thân mến,
Chúng ta được dạy bảo và
cũng cảm nghiệm được rằng Thiên Chúa luôn yêu thương nhân loại mà Ngài đã dựng
nên “theo hình ảnh Chúa.” Khi chúng ta sa ngã phạm tội, thì Chúa gửi các
đau khổ và thử thách đến để cảnh tỉnh chúng ta; nếu biết sám hối lỗi lầm, ăn
năn trở lại thì Ngài tha thứ và luôn thương yêu chúng ta.
Như bài đọc I hôm nay ghi lại thời gian Dân
Chúa sa ngã phạm tội và không chịu nghe lời các tiên tri để ăn năn sám hối, nên
Thiên Chúa đã để quân thù đến xâm chiếm và tàn phá đất nước, rồi bắt tất cả phải
đi lưu đầy sang Babylon một thời gian lâu dài, cho đến khi họ nhận biết lỗi lầm
và cầu khẩn Chúa thương cứu giúp đưa về quê hương.
Để giúp ông Nicodemo hiểu
tình yêu của Thiên Chúa, Đức Giesu đã nhắc lại câu chuyện ngày xưa về con rắn bằng
đồng.
Ngày ấy, trong thời xuất
hành, dân Do Thái đã gay gắt phàn nàn Thiên Chúa và ông Mose về những khó khăn
họ gặp phải nơi sa mặc, dù Thiên Chúa đã hết lần này đến lần khác tỏ cho họ biết
tình yêu của Ngài: cứu họ khỏi làm nô lệ bên Ai Cập, đưa họ về Đất Hứa; ban
Manna cho họ ăn nơi sa mạc, họ lại đòi thịt; Chúa cho chim cút từ trời rơi xuống
cho họ, họ lại đòi nước; Chúa cho nước từ tảng đá vọt ra cho họ uống; thế mà họ
còn nổi loạn đòi giết cả ông Mose! Chúa giận, cho rắn lửa bò ra cắn chết một số
người. Khi đó họ mới biết sợ và năn nỉ ông Mose xin Chúa cứu. Chúa lại thương,
dạy ông Mose làm một con rắn bằng kim lọai, treo lên cao giữa trại. Ai bị rắn cắn
mà nhìn lên nó, thì sẽ được cứu sống.
Kể xong, Đức Giesu kết luận:"Con
Người cũng phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn
đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người
thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời."
Chuyện con rắn bằng đồng
này đã gây ấn tượng sâu đậm trong dân đến độ họ coi nó như thần tượng đến nỗi về
sau người ta phải hủy đi vì dân chúng thờ lạy nó.
Điều ấy chứng tỏ con người
yếu đuối mê muội đến chừng nào! Vì một con rắn làm bằng đồng, chỉ như một dấu
hiệu, nó là một thứ kim loại vô tri vô giác, tự nó không có khả năng quyền hành
gì, nó không có sự sống thì làm sao có thể ban được sự sống? Mà phải hiểu rằng
khi nhìn lên con rắn, thì trong lòng tin vào Đấng đã truyền lệnh cho ông Mose
làm ra nó, là biểu hiện một lòng tin vào Đấng ấy. Niềm tin phát suất từ bên
trong ra bên ngoài bằng cái nhìn, là tin Đấng ấy thì được chữa lành. Quyền phép
chữa lành ở nơi Đấng mình tin, là Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa của câu chuyện Đức
Giêsu nói với ông Nicodemo.
Ngày nay Giáo Hội cũng muốn
chúng ta nhìn lại con rắn trong sa mạc để nhận ra những con rắn tội lỗi đang ẩn
náu trong tâm hồn mỗi người, đó là: rắn tham lam, ích kỷ, giận hờn, ghen ghét
đang xâu xé làm chúng ta trở nên cằn cỗi, hư nát… Không những thế, chúng còn tạo
ra sự bất hoà giữa các thành viên trong gia đình và cộng đoàn. Phá tan sự hợp
nhất mà Đức Giêsu đã dùng chính mạng sống mình để đánh đổi.
Muốn khỏi bị trầm luân,
hư mất đời đời thì cần tin vào Đức Giêsu cứu chuộc, để Ngài đem hạnh phúc trường
sinh cho chúng ta. Nói như vậy là để chúng ta ý thức tình trạng tội lỗi của
mình, mà biết phải cần tới Chúa.
Và hôm nay, Đức Giesu đã tiên báo Ngài cũng sẽ
bị giương cao, treo lên thập gía, cũng như việc Ngài được cất lên để vào sự
vinh hiển lúc Ngài về trời. Hai vấn đề trái ngược nhau, nhưng liên hệ với nhau,
bởi với Đức Giesu, thập gía là con đường tiến đến vinh quang. Điều đó như một định
luật bất biến của đời sống: không có đau khổ, không có thập gía, thì không có
vinh quang.
1. Tin vào Con Người:
Khi chúng ta làm dấu
Thánh Giá, chúng ta hãy nhớ dâng lên Chúa những đau khổ, những điều thiếu may mắn,
thất bại, chán nản đôi khi đến cùng cực và cả những tội lỗi của chúng ta nữa.
Vì chính nhờ cây Thánh Giá mà tất cả đời sống của chúng ta đều được đón nhận.
Vì cây Thánh Giá là điểm tựa cho chúng ta ở đời này. Cho biết Thiên Chúa không
phải là Đấng từ trên cao đang lạnh lùng nhìn xuống trần gian, nhưng Ngài là Đấng
luôn đồng hành với chúng ta ngay từ khi Ngài ra đời tại Belem. Nếu chúng ta có
băn khoăn bối rối khi đời sống quá cô đơn, vất vả, truân chuyên, thì cũng nhớ
nhìn lên Thánh Giá, đó chính là niềm tin, nguồn an ủi và là nhà của chúng ta.
Vậy hãy cố gắng hết sức
tuân nghe lời Chúa để tránh xa tội lỗi, trở về theo lời mời gọi của Thiên Chúa
qua Đức Kitô như Thánh Phaolô nhắc chúng ta hôm nay: Nhờ ơn Chúa mà chúng ta được
cứu rỗi, chứ không phải bởi ý lực của chúng ta. Phải ý thức rằng tất cả chúng
ta đều là những tội nhân, bị rơi xuống vực thẳm, không thể tự cứu mình, cũng
không ai có thể cứu giúp. Chỉ có Đức Giêsu, cứu chúng ta bằng cách chết thay
cho chúng ta, nếu tin nhận như thế thì chúng ta đã bắt đầu đi vào con đường cứu
độ của Ngài.
a) Tin
Thiên Chúa phải hết lòng, hết trí khôn:
- Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải có một đức
tin sắt son, bền vững vào Ngài.
- Tin Thiên Chúa hằng yêu thương, chăm sóc,
và tha tội cho chúng ta.
- Không như người Do Thái khi xưa nhìn Thiên
Chúa như một vị thẩm phán, và mọi người là tội nhân trước tòa án của Ngài.
- Họ còn coi Thiên Chúa như một người hay đòi
hỏi dâng lễ vật này nọ.
- Muốn đến gần, muốn ra mắt Thiên Chúa, cũng
phải đáp đúng yêu cầu mà Ngài đã qui định.
- Vì thế Đức Giesu đã đến, trả gía bằng chính
đời sống và sự chết của Ngài để công bố cho loài người biết Thiên Chúa không
như họ nghĩ, mà Ngài chính là người Cha tha thiết trông chờ đứa con hoang trở về
nhà.
- Thật vậy, nếu chúng ta không tin vào Ngài
thi tin vào ai? Bởi chúng ta cũng như mọi người, có tài chí, khả năng cao dầy
biết mấy cũng chỉ là những tạo vật, nay còn mai mất, “chỉ một làn gió cũng
làm nó biến đi!” mà tin tưởng, hy vọng vào chính cuộc đời mình, hoặc những
thứ ở trần gian thì thật là hư ảo, điên rồ phải không?
b) Đức Giesu hiểu rất rõ những gì Ngài nói:
- Phải tin rằng Đức Giesu là Con Thiên Chúa,
Ngài là tâm trí, và thân cận mật thiết với Thiên Chúa.
- Bởi Đức Giesu vốn là một với Thiên Chúa, nên
Ngài có thể nói cho chúng ta biết về chân lý tuyệt đối của Thiên Chúa.
- Vì thế Đức Giesu biết rất rõ những gì Ngài
nói, như Ngài nói sự thật về Thiên Chúa.
- Nên tin là phó thác chương trình hiện tại và
vận mệnh đời đời nơi Chúa. Xác tín lời Chúa có thể thực hiện và cậy trông vào
quyền năng biến đổi của Ngài.
- Niềm tin ấy không bao giờ bất đồng hay tiêu
cực, mà thúc đẩy con người làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu, toàn thắng mọi sự
dữ.
c) Tin Thiên Chúa là cha yêu thương:
- “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian,
không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được
cứu độ.”
- Đọc lời này, chúng ta thấy được an ủi,
không còn lo lắng, lúc nào cũng bị ám ảnh sợ hãi về một Thiên Chúa luôn giận dữ,
thích trừng phạt.
- Như trong Tin Mừng cũng cho thấy thực tế nhiều
người đáng bị lên án, họ cũng từng bị người đồng hương Do Thái lên án, nhưng
khi họ gặp Đức Giesu thì Ngài không hề qưở trách mà nhanh chóng thứ tha hết cho
họ: đó là người phụ nữ ngoại tình, ông Dakeu, tên trộm bị đóng đinh bên cạnh
Ngài…
- Bởi Ngài đến thế gian mục đích chỉ để tha thứ,
cứu chuộc, tạo rất nhiều cơ hội cho mọi người, mọi hoàn cảnh để được cứu.
- Đức Giesu đã nói sự thật như vậy, và muốn
chúng ta làm theo tất cả những gì Ngài dạy và vững tâm tin tưởng, không chút do
dự vào lòng nhân từ của Thiên Chúa.
- Mọi tư tưởng, lời nói, hành động, dù nhỏ nhất
trong đời sống đều phải được thực hiện trong sự vâng lời Ngài, không nghi ngờ,
không thoái thác.
- Tin vào tình yêu Chúa là điều trước hết của
niềm tin, tin Chúa là cha nhân hậu, che chở, đùm bọc, quan phòng rất chu đáo, rất
toàn năng.
- Từ lòng tin đó chúng ta kính yêu Chúa, vì
tin nên kính yêu, vì tin nên phó thác, bởi lòng tin nâng đỡ tình yêu và ngược lại,
tình yêu nâng đỡ niềm tin, yêu tin và tin yêu là một.
- Hôm nay Thánh Phaolô cũng nhắc nhở chúng ta
nhớ đến lòng nhân từ của Chúa: cả khi yếu đuối sa ngã, Ngài cũng vẫn thương, sẵn
sàng thứ tha mọi lỗi lầm nếu chúng ta biết ăn năn sám hối. Hơn nữa, ơn cứu chuộc
được ban nhưng không, chứ không vì công nghiệp của chúng ta, vì thế chúng ta đừng
tự phụ, đừng ích kỷ.
- Đừng làm công việc thống hối, ăn năn với sức
lực của mình; vì ơn cứu độ không đến qua sự nghiệp của chúng ta, mà qua niềm
tin, tin vào lòng lân tuất của Chúa đã cứu chúng ta qua mầu nhiệm tử nạn của
Con Ngài.
- Chính đường lối cứu chuộc này khiến việc xét
tội, ăn năn của chúng ta không còn là một công việc nặng nề, tiêu cực. Nhưng nhớ
tới lòng Chúa đã rộng rãi qua cái chết của Con Ngài, sẽ khiến công việc diệt tội
của chúng ta được nâng đỡ bằng mầu nhiệm Phục sinh.
2. Được sự sống
muôn đời.
Từ đấy, những ai muốn
được ơn cứu độ phải có ba điều kiện: phải được tái sinh bởi Nước
và Thánh Thần. Phải tin Đức Giêsu, Đấng đã chịu chết trên thập giá
để đền tội thay. Và phải vác thập giá mình hằng ngày đi theo Ngài.
Chúng ta phải đi ngang qua hoang địa của cuộc
đời, những hoang tưởng trên đường tiến về với Thiên Chúa. Với bao nhiêu gian
nan, trắc trở, khó khăn làm thất vọng, quay ngang ngó dọc, làm giảm tin tưởng
vào sự quan phòng của Chúa, không phải chỉ trong thử thách lớn, mà ngay trong
các biến cố hằng ngày của cuộc đời.
Nhưng tội lỗi của chúng
ta không thể lớn hơn tình yêu của Thiên Chúa. Không khi nào tình yêu Thiên Chúa
chịu thua tội lỗi của con người. Tất cả chúng ta đều sẽ được cứu, vì như con rắn
đồng, Thập gía là dấu chỉ ban ơn cứu thóat để được sống.
Được sống muôn đời là sự
sống viên mãn của chính Thiên Chúa, Ngài chia xẻ cho chúng ta sự sống đời đời
là:
a) Sự bình an của Thiên Chúa:
- Chúng ta không còn coi Thiên Chúa như một vị
vua độc tài khắc nghiệt.
- Không còn sợ hãi, lo lắng, khát khao bất cứ
điều gì.
- Chúng
ta được vĩnh viễn ở trong sự quan phòng của Thiên Chúa.
b) An hòa với mọi người:
- Chúng
ta nhìn người khác như Thiên Chúa nhìn họ.
- Mọi
người được tha thứ và cùng thứ tha cho nhau.
- Mọi người sống hòa hợp vui vẻ với nhau như một
đại gia đình sống trong tình yêu thương.
c) An hòa với đời sống:
- Vì
Thiên Chúa là Cha, nên Ngài điều hành mọi sự để tất cả được tốt lành.
- Người
Cha chỉ muốn con cái được sung sướng hạnh phúc, không bao giờ làm chúng đau khổ.
-
Chúng ta có thể hiểu rõ hơn về cuộc đời, nhưng chúng ta không còn oán
trách, mà sẵn sàng đón nhận nó.
d) An hòa với chính mình:
- Sự
thật con người sợ chính bản thân mình hơn bất cứ thứ gì khác.
- Do
chúng ta biết rõ sự yếu đuối, giới hạn, đam mê của mình, biết sức mạnh của cám
dỗ, biết công việc và sự đòi hỏi của đời sống mình.
-
Chúng ta biết chính mình phải đương đầu với mọi sự, nhưng luôn tin có
Thiên Chúa ở cùng.
-
Khi đó không phải là chúng ta sống nữa, nhưng là Đức Giesu sống trong
chúng ta.
- Đời sống chúng ta có sự bình an được thiết lập
bằng sức mạnh của chính Thiên Chúa.
e)
Giúp tiến tới tương lai:
-
Chúng ta biết chắc chắn sự bình an của thế gian chỉ là cái bóng của sự
bình an tuyệt đối sắp đến.
- Nó
cho chúng ta hy vọng, mục đích để tiến tới đời sống kỳ diệu trên trái đất này,
và đồng thời một đời sống quang vinh vô cùng ở tương lai.
3. Ai không
tin thì bị lên án:
- Đây là bản án: “Ánh sáng đã đến thế
gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng.”
- Đức Giesu đến để thắp lên ngọn đèn sáng
trong đêm tối, nhờ đó mọi sự được rõ ràng, chúng ta nhìn nhận ra những chướng
ngại vật cản trở, là những gì làm điên đảo tâm lòng chúng ta.
- Tuy nhiên, thế gian là một thực tại đầy những
phức tạp, xáo trộn; ưa thích bóng tối hơn là ánh sáng. Thái độ này không được
diễn tả qua ngôn ngữ hay tình cảm, nhưng là qua chính cuộc sống của con người,
tức là qua cách thức họ sống, qua suy tư và công việc họ làm.
- Chúng ta hãy can đảm cương quyết tránh những
con đường gỉa tạo, để đi trên con đường đã vạch ra cho mình từ khi chịu phép Rủa
tội.
- Bởi trong mối quan giao với Chúa, không thể
lấp lửng, mưu mô lắt léo, mà chỉ tin hay không, chọn ánh sáng hay bóng tối mà
thôi.
- Chấp nhận bóng tối là chìm ngập trong bóng
tối bao phủ, để nó sai khiến tất cả, không thể sống vì tình yêu chân chính,
đích thực.
- Chấp nhận ánh sáng là người sẵn sàng nhận
ra những công việc mình làm, chính là những công trình của Thiên Chúa trao ban.
- Họ là người luôn sống hòa hợp với tình yêu
được tỏ bầy trong Đức Kito và nơi mọi người.
- Đức Giesu nói rõ ràng: “Người ta đã chuộng
bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Qủa thật, ai làm điều ác,
thì ghét ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.”
- Đúng thế, đêm đen, bóng tối bao phủ, che
chở, yểm trợ cho những kẻ bất lương, đồng lõa với bọn tội phạm, hợp tác với sự
say sưa trụy lạc…
- Còn ban ngày, ánh sáng có thể bảo vệ, che
chở cho những kẻ ngay lành, soi đường cho người công chính; xua đi những bóng tối,
đề phòng quân gian trộm cắp...
- Vì thế, Chúa muốn chúng ta là ánh sáng trần
gian, xa tránh bóng tối, gĩa từ môi trường xấu, bạn bè xấu, tránh những cơ hội,
hoàn cảnh khiến chúng ta lỗi phạm.
- Đến cùng ánh sáng là đến cùng Đức Giesu,
cùng giáo huấn của Ngài, nhận Lời Ngài như ngọn đèn soi đường và giúp chúng ta
nhận ra những vết đen nhơ nhớp mà gột rửa.
- Tin Mừng hôm nay mạc khải cho chúng ta tình
yêu của Thiên Chúa đối với con người là như vậy. Tình yêu ấy sẽ không bao giờ
phai nhạt dù cho cuộc đời có đổi thay. Tình yêu của Thiên Chúa vẫn như mưa tưới
gội trên mọi người: cả người lành cũng như kẻ ác. Ngài không áp đặt con người
phải theo Ngài. Trái lại, Ngài cho họ được quyền tự do lựa chọn hạnh phúc cho
chính mình. Vì thế, kẻ tin theo Chúa, đặt tin tưởng vào Ngài thì sẽ được cứu.
Còn kẻ không tin, thì tự họ, họ đã tìm đến cõi diệt vong.
Lạy Chúa,
chúng con tin Chúa là tình yêu, và mọi sự Ngài làm đều vì yêu chúng con, cả những
khi Chúa mạnh tay sửa đổi, khi Ngài thinh lặng như vắng mặt hoặc như Ngài “chịu
thua” ... chúng con cũng vẫn tin Chúa là mạch sống, là Chúa toàn năng nhân
ái.
Và chúng
con cũng tin rằng nơi tâm lòng những người cứng cỏi, lạnh nhạt cũng có một đốm
lửa của sự thiện, chỉ cần một ngọn gío tình yêu chân thành cũng đủ làm đốm lửa ấy
cháy bừng lên rạng rỡ.
Vì vậy
chúng con tin dần dần mọi người cũng sẽ gặp nhau, vượt qua mọi tranh chấp, mọi
bất đồng, mọi thành kiến giai cấp, để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
về nhà Chúa, là nơi hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban cho chúng con. Amen (mượn lời)
Than men,
duyenky
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét