CÔNG ĐỒNG ĐẠI KẾT HAY CÔNG ĐÔNG CHUNG LÀ GÌ TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO?
Hỏi: 1- Xin cha giải thích về Công Đồng Đại Kết hay
Công Đồng Chung trong Giáo Hội Công Giáo.
2- Có bao nhiêu
Công Đồng chung được triệu tập từ xưa đến nay?
Trả lời :
1- Trong Giáo Hội , khi
nói đến Công Đồng Chung hay Công Đồng Đai Kết ( Ecumenical Council) là nói đến
việc triệu tập tất cả các thành phần lãnh đạo trong Giáo Hội hoàn vũ và giáo hội địa phương ; cụ thể là các giám mục
và các Bề Trên Dòng trong toàn Giáo Hội về Roma
họp với Đức Thánh Cha để bàn về những vấn đề có liên quan đến tín lý, (
dogma) giáo lý ( doctrine) luân lý ( moral) và kỷ luật (
disciplines) ( x giáo luật số 338-341
Từ ngữ đại kết =
Ecumetical xuất phát từ tiếng Hy lạp-
“oikoumene” có nghĩa là Toàn diện, toàn thế giới. Do đó, khi đại Công Đồng
chung hay Đại kết được triệu tập thì chủ yếu là tất cả các giám mục trong toàn
Giáo Hội được mời về giáo đô Rôma theo lệnh Đức Thánh Cha là người triệu tập và
cũng là người trụ trì –tức chủ tọa các phiên họp của Công Đồng.
Từ xưa đến nay, mỗi khi
Giáo Hội có nhu cầu quan trọng phải bàn bạc và quyêt định, thì Đai Công Đồng
chung được triệu tập để các vị có trách nhiệm trong Giáo Hội hoàn vũ (The
Universal Catholic Church)và địa phương ngồi lại với Đức Thánh Cha là Thủ lãnh
Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ và cũng là Thủ lãnh Giám mục đoàn (College of
bishops) để thảo luận và quyết đinh những vấn đề có liên quan đến Sứ vụ vá sứ mệnh
của Giáo Hội là Thân Thể nhiệm mầu (Mystical Body) của Chúa Kitô trong trần thế.
Ngoài các Giám mục là
thành phần chính, còn có đại điện các Dòng Tu lớn, các thần học gia nổi tiếng, các
chuyên viên giáo luật và phụng vụ cũng được mời để đóng góp ý kiến
chuyên môn cho Công Đồng. Các Hồng
Y cũng là giám mục nên đều được mời tham
dự Công Đồng. Cần nói thêm ở đây là các
Hồng Y có vai trò lớn hơn các giám mục, vì là những cố vấn cho Đức Thánh Cha, và đương
nhiên là những cử tri (elector) đi bầu
GiáiHoàng mớivà có khả năng được bầu lên
ngôi Giáo Hoàng ( dù không ra ứng cử) nếu dưới 80 tuổi. Khi đương kim Giáo Hoàng từ trần hay từ chức
(Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI từ chức năm 2012) thì các Hông Y dưới 80 tuổi sẽ họp
Mật nghị (Conclave ) để bầu Giáo Hoàng mới cho Giáo Hội.
Theo giáo luật, thì Công Đòng chung phải được
chính Đức Thánh Cha triệu tập, chủ tọa, phê chuẩn các sắc luật được thông qua
và giải tán Công Đồng (x giáo luật số 338)
Tuy nhiên, trong lịch sử
Giáo Hội, thì tám Công Đồng chung đầu tiên đươc triệu tập ở Đông phương theo lênh của các Hoàng Đế (Emperor) chứ
không do Đức Thánh Cha triệu tập . Tuy Đức Thánh Cha không đich thân tham dự nhưng ngài cũng phê chuẩn các quyết định của các Công Đồng này.
2. Sau đây là danh sách
các Đại Công Đông chung đã được triệu tập từ xưa đến nay:
1- Công Đồng Nicaea
(Nicene) I, A,D 325 lên án bè rối Arianism sai lầm về bản tính của Chúa Giêsu
và tuyên bố Chúa Con cùng bản thể với Chúa Cha.. Công Đồng cũng chấp thuận Kinh
Tin Kính được đọc trong các Thánh Lề ngày Chúa nhật và các ngày lễ trọng từ đó
đến nay trong toàn Giáo Hội
2- Công Đồng
Constantinople I, A.D 381 lên án bè rối Macedonians và tuyên bố Chúa Thánh Thần
đồng bản thể với Chúa Cha và Chúa Con
3- Công Đồng Ephesus, A.D
431 lên án bè rối Nestorians và Pelagians và chính thức tuyên bố Đức Trinh Nữ Maria là
“ Mẹ Thiên Chúa=Theotokos” vì là Mẹ thật của Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa
đồng thể với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.Từ đó Giáo Hội có lễ buộc kính Mẹ
Maria là Mẹ Thiên Chúa ngày 1 tháng 1 mỗi năm.
4- Công Đồng
Chalcedon,A.D 451 lên án bè rối Monophysitism
5- Công Đồng
Constantinople II, A,D 553, lên án Ba
Kinh hội (Three Chapters)
6- Công Đồng
Constantinople III, A, D 680. Lên án ngụy thuyết Monothelitism
7- Công Đồng Nicaea II,
A, D 787, lên án việc đập phá ảnh tượng(Iconoclasm)
8- Công Đồng Constantinople
IV, 869: CHẤM DỨT LY GIÁO HY-LẠP VÀ TRUẤT PHẾ THƯỢNG PHỤ PHOTIUS
9- Công đồng Lateran I,
1223, ban hành các sắc lệnh về tội mại thánh (Simony,) và luật độc thân cùa
hàng giáo sĩ.
10- Công Đồng Lateran II,
1139, chấm dứt ly giáo về ngôi vị Giáo
Hoàng (Papal schism) và ban hành những cải cách mới.
11- Công Đồng Lateran
III, 1179, lên án các bè rối Albigenses và Waldenses Và qui định việc bầu Giáo
Hoàng.
12- Công Đồng Lateran IV,
1215, chuẩn bị cho cuộc Thập tự chiến(Crusade) Sắc lệnh về việc Rước Lễ hàng
năm, và nhắc lại việc lên án các bè rối của Công Đồng Lateran III
13- Công Đồng Lyons I,
1245, hạ bệ Frederick II và chuẩn bị cuộc Thập tự Chinh(
Crusade)
14- Công Đồng Lyons II,
1274, nối kết Giáo Hội với phía Hy lạp và công bố những cải cách về kỷ luật
15- Công Đòng Vienne,
1311-1312 bãi bỏ Kinh sĩ Templars và ban hành những cải cách mới.
16- Công Đồng Constance,
1414-1418, chấm dứt cuộc Đại ly giáo Tây Phương kéo dài từ năm 1378 đến 1414 mà
nguyên nhân chính là vấn đề tranh chấp ngôi vị Giáo Hoàng của các phe người
Pháp, Ý và Đức
17- Công Đồng Florence,
1431-1445, vấn đề hiệp nhất với phía Hy
Lạp Và ban hành nững cải cách mới.
18- Công Đồng Lateran V,
1512- 1517 đói phó với nhóm Tân Aristote (Neo-Aristotelians) và ban hành những
cải cách mới
19- Công Đồng Trent,
1545-1563, lên án nhóm Thệ phản (Protestantism) Và đóng thư qui (canon) Kinh
Thánh
20- Công Đồng Vaticanô I,
1869-1870).lên án những sai lầm, và công bố ơn bất khả ngộ ( infallibility) của
Đức Thánh Cha
21- Công Đồng Vaticanô
II, do Đức Thánh Cha Gioan XXIII triệu tập Và khai mạc ngày 11 tháng 10 năm
1962.Khóa 1 chấm dứt ngày 8 Tháng 12,1962 , sau khi Đức Thánh Cha Gioan qua đời ngày 3-6-1963 Đức Thánh Cha Phaolô VI được bầu
lên thay thế và tiếp tục công việc Của Công Đồng thêm ba khóa họp nữa vào những
ngày sau đây :
Từ 26 tháng 9 đến 4 tháng 9 năm 1963
Từ 14 đến 21 tháng 11 năm
1964
Từ 14 tháng 9 đến 8 tháng
12 năm 1965 là ngày kết thúc Công Đồng với 16 tuyên ngôn và sắc lệnh được Đức Thánh Cha Phaolô VI ký cho ban
hành trong toàn Giáo Hội .
(source : Catholic
Encyclopedia)
Đây là Đại Công Đông
Chung lớn nhất được triệu tập trong Giáo Hội từ trước đến nay, với sự tham dự của trên 2000 giám mục đến từ
khắp nơi trên thế giới đem lại thành quả
lớn lao là canh tân hay đổi mới Giáo Hội về mọi phương diện. đặc biết là phụng
vụ, bí tích . Cụ thể : Thánh Lễ Tạ Ơn ( The Eucharist) và các bí tích từ nay được
cử hành bằng ngôn ngữ của các dân tộc thay vì bằng La ngữ thống nhất
từ trước cho đên năm 1965, là năm kết thúc Công Đồng Vaticanô II.
Dầu vậy , vẫn có sự bất đồng
trong Giáo Hội về những cải cách của
Công Đồng. Cụ thể : Tổng Giám mục Marcel Lefebvre (Pháp) đã ly khai khỏi Giáo Hội
hậu Công Đồng để tiếp tục làm lễ bằng tiếng Latin và bác bỏ mọi cải cách của
Công Đồng. Ông cũng lôi kéo được một số
người có khuynh hướng bảo thủ đi theo. Nay nhóm này đã tan rã, sau khi Tổng Gián muc Lefebvre qua
đời năm 1991.
Sau cùng, một điều đáng chú ý là Đức
Giáo Hoàng Bê-nê-đich-tô XVI (đã về hưu năm 2012) đã cho tái lập lại Nghi Thức cũ cử hành Thánh
Lễ bằng tiếng Latinh,song song với nghi thức mới bằng các ngôn ngữ địa
phương, theo đó từ nay nơi nào có nhu cầu và có linh muc đọc được tiếng
Latinh, thì khỏi phải xin phép Tòa Thánh để làm lễ Latinh như trước.
Ước mong những giải đáp
trên thỏa mãn câu hỏi đặt ra.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn. MDive. MA, DM
(Doctor of Ministry =Tiến Sĩ Sứ Vụ)
Lm.
Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét