Thứ Ba, 4 tháng 5, 2021

Phúc bất tận hưởng, quyền bất tận sử

 

Phúc  bất  tận  hưởng,  quyền  bất  tận  sử

An Hòa•Thứ Sáu, 02/04/2021

 
(Tranh minh họa qua Aboluowang.com)

Người xưa nói: “Phúc hề họa sở ỷ, họa hề phúc sở trí”, tức là họa là chỗ dựa của phúc, phúc là nơi ẩn náu của mối họa, phúc nếu như hưởng hết thì tất sẽ chiêu mời họa. Vì vậy, cổ nhân đề cao nguyên tắc “phúc bất tận hưởng”, không được mặc sức hưởng thụ phúc, tránh để tiêu hao hết phúc báo của bản thân. Văn hóa truyền thống còn cho rằng mọi phúc báo trong cuộc đời của một người là từ đức mà ra, cho nên nếu một người hưởng hết phúc mà không hành thiện tích đức thì tai họa sẽ đến ngay lập tức. Quyền thế lại càng là một loại cám dỗ khiến người ta nhanh chóng tận diệt phúc phận của mình.

Những người hiểu biết thời xưa đều sống theo nguyên tắc “Phúc bất tận hưởng, quyền bất tận sử”. Không những thế, họ còn giáo dục và hướng con cái sống theo nguyên tắc đó một cách vô cùng nghiêm túc. Một tấm gương nổi tiếng về việc này là vị quan đại thần triều Thanh tên Trương Đình Ngọc.

Trương Đình Ngọc là Đại học sỹ, Quân cơ đại thần vào thời Hoàng đế Ung Chính nhà Thanh. Mặc dù địa vị cao nhưng ông rất khiêm cung, hiểu rõ đạo lý đối nhân xử thế. Ông còn yêu cầu con cái phải biết sống giản dị chất phác, bằng lòng với những gì mình có và coi trọng đức hạnh.

Bấy giờ con trai cả của Trương Đình Ngọc là Trương Nhược Ải đã vượt qua được hai kỳ thi Hương và kỳ thi Hội để bước vào kỳ thi Đình tại kinh thành. Sau khi các quan chủ khảo đọc và chấm bài luận của thí sinh, họ niêm phong bài lại và trình lên để Hoàng đế đích thân thẩm duyệt và định đoạt.

Bài thi thứ 5 có câu “Thiện tắc tương khuyến, quá tắc tương quy, vô trá vô ngu, tất thành tất tín, tắc đồng quan nhất thể dã, nội ngoại diệc nhất thể dã” (Quan quân thấy gương việc thiện thì nên khuyến khích lẫn nhau, thấy lỗi lầm của người khác thì nên chiểu theo pháp quy mà làm, không ai gian trá không ai lầm lạc, thì mọi việc đều thành tâm, mọi chuyện đều đáng tin cậy, như thế quan lại cùng làm việc như một thể thống nhất, trong ngoài kinh đô đều làm việc như một thể thống nhất). Đọc đến câu này, Hoàng đế rất phấn chấn, nhận thấy ngôn từ có phong thái của các bậc đại thần.

Vì vậy, Hoàng đế Ung Chính liền quyết định chủ nhân của bài thi này đậu Thám hoa. Sau đó Hoàng đế mới biết đây là bài thi của Trương Nhược Ải, con Đại học sĩ Trương Đình Ngọc. Ông liền lập tức phái người báo tin vui cho Trương Đình Ngọc biết.

Không ngờ, Trương Đình Ngọc biết tin liền lập tức tới cầu kiến. Khi được vào gặp mặt Hoàng đế, Trương Đình Ngọc lại bày tỏ rằng không nên cho con trai còn trẻ tuổi đậu Nhất giáp tam danh.

Hoàng đế ngạc nhiên: “Trẫm thật sự chí công vô tư, không phải vì đó là con của đại thần mà có ý đề bạt”.

Trương Đình Ngọc lại nói: “Thiên hạ lắm người có tài, 3 năm mới có một kỳ thi, mỗi người đều mong có tên trong Nhất giáp. Bản thân thần hiện nay có địa vị cao, con của thần lại đỗ Nhất giáp tam danh, chiếm chỗ của các hàn sỹ trong thiên hạ, trong tâm thần thật sự bất an. Thỉnh Hoàng đế liệt nó vào Nhị giáp, như vậy đã là vinh hạnh rồi”.

Vào thời nhà Thanh, trong chế độ khoa cử thì kỳ thi cuối được tổ chức tại Hoàng cung. Thi đậu kỳ thi này có 9 người và được xếp vào 3 giáp tiến sỹ, mỗi giáp 3 người. Nhất giáp gồm Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, gọi là Tiến sỹ cập đệ. Nhị giáp gọi là tiến sỹ xuất thân. Tam giáp gọi là Đồng tiến sỹ xuất thân.

Dù cả 3 giáp đều có thể gọi chung là Tiến sỹ, nhưng chế độ đãi ngộ dành cho mỗi giáp không hề tương đồng. Người đậu Nhất giáp có thể lập tức nhậm chức quan, có thể làm việc trong Hàn Lâm Viện, tương lai có thể dễ dàng thăng đến chức vụ cao hơn. Những người đậu Nhị giáp, Tam giáp không thể lập tức thụ quan mà phải chờ vài ba năm, và thường bắt đầu từ các chức quan tại phủ huyện mà thôi.

Trương Đình Ngọc hiểu rõ quy tắc này, nhưng cho rằng con trai còn trẻ, không thể ở tại vị thế quá thuận lợi, danh tiếng quá lớn, địa vị quá cao. Điều này với người trẻ tuổi mà nói sẽ là lợi bất cập hại. Ông cho rằng cần phải bảo toàn phúc đức thì mới tiến bước vững vàng.

Lúc đầu Hoàng đế Ung Chính tưởng Trương Đình Ngọc đơn giản chỉ muốn khiêm nhường, nên nói rằng: “Nhà khanh tận trung tích đức, có được người con ưu tú, đỗ vào Nhất giáp, mọi người đều phục, hoàn toàn xứng đáng, không cần phải hổ thẹn”.

Trương Đình Ngọc liền quỳ xuống trước mặt Hoàng đế tâu: “Hoàng thượng chí công. Nhưng nhà thần đã được thụ hưởng nhiều vinh hoa ân điển, xin hoàng thượng soi xét cho lòng thành của thần, nguyện ý nhường lại Nhất giáp cho hàn sỹ trong thiên hạ. Nếu Hoàng thượng muốn khai ân mà bảo hộ cho thần, xin cho nhà thần lưu lại một chút phúc phận, để dành tương lai về sau, sự việc sẽ tốt đẹp hơn”.

Hoàng đế Ung Chính thấy Trương Đình Ngọc tha thiết như vậy, không thể không theo thỉnh cầu ấy. Cuối cùng, Trương Nhược Ải được sửa thành đứng đầu Nhị giáp. Không lâu sau đó, tại chỗ trương bảng khoa, Hoàng đế cũng ban chỉ biểu dương đức tính khiêm nhường của Trương Đình Ngọc, để cho thiên hạ cùng đọc mà biết được.

Trương Nhược Ải không phụ lòng hy vọng to lớn của cha, không ngừng rèn luyện, sở học không ngừng tiến những bước dài. Sau này dù tại Nam thư phòng, hay là Quân cơ đại thần, Trương Nhược Ải luôn luôn tận lực làm tròn trách nhiệm, hơn nữa lại cung kính khiêm nhường, có phong thái giống như cha.

Người xưa thường giảng: “Hữu quyền bất khả sử tẫn, hữu phúc bất khả hưởng tẫn”, có quyền không được dùng hết, có phúc không được hưởng hết; hay “Trung hậu truyền gia cửu, khiêm thận kế thế trường”, trung hậu truyền đời thì gia đình được vững bền, khiêm cung thận trọng thì phúc thọ được dài lâu. Đây đều là những lời vàng ý ngọc trong đạo lý đối nhân xử thế, cũng là quy phạm dạy con hết sức trọng yếu.

An Hòa biên tập

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét