Dấu hiệu bệnh Whitmore
Thứ
tư, 11/9/2019-VnExpress.net
Bệnh nhân nhiễm vi khuẩn
Whitmore thường sốt, giảm cân, đau dạ dày hoặc ngực, đau cơ khớp, đau đầu và co
giật.
Whitmore còn gọi bệnh
melioidosis, là bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm do vi khuẩn Burkholderia
pseudomallei gây nên. B. pseudomallei sống trong đất, vì thế đường lây nhiễm
chính là qua tiếp xúc các vết trầy xước trên da với đất hoặc nước có vi khuẩn.
Lây nhiễm qua đường hô hấp khi hít phải các hạt bụi đất có vi khuẩn trong những
trận gió lốc xoáy trước cơn mưa.
Một số nghiên cứu cho thấy
có thể nhiễm bệnh khi ăn thức ăn có vi khuẩn. Chưa có bằng chứng về lây bệnh giữa
người với người hoặc lây từ động vật sang người qua đường không khí. Vì thế,
các ca bệnh Whitmore thường lác đác, lẻ tẻ chứ không bùng phát thành dịch hoặc
đại dịch.
Thời gian ủ bệnh từ một đến
21 ngày, trung bình 9 ngày. Các triệu chứng thường xuất hiện hai đến bốn tuần
sau khi tiếp xúc vi khuẩn.
MedicineNet chia bệnh
melioidosis thành các loại khác nhau, mỗi loại có dấu hiệu và triệu chứng
riêng:
Nhiễm trùng phổi: Các dấu
hiệu và triệu chứng của melioidosis phổ biến nhất, xuất phát từ bệnh phổi nơi
nhiễm trùng có thể hình thành một khoang mủ (áp xe). Tác động của nhiễm trùng
phổi có thể từ viêm phế quản nhẹ đến viêm phổi nặng. Do đó, bệnh nhân cũng có
thể bị sốt, nhức đầu, chán ăn, ho, khó thở, đau ngực và đau nhức cơ nói chung.
Nhiễm trùng cục bộ: Khi
nhiễm trùng trên da (viêm mô tế bào) sẽ có các dấu hiệu như đau hoặc sưng, loét
và áp xe, kèm theo sốt và đau cơ.
Nhiễm trùng máu: Nếu
melioidosis xâm nhập vào máu, các triệu chứng có thể bao gồm sốt, nhức đầu, suy
hô hấp, khó chịu ở bụng, đau khớp và mất phương hướng.
Nhiễm trùng lan tỏa: Bệnh
melioidosis có thể lây lan từ da qua máu để trở thành một dạng melioidosis mạn
tính ảnh hưởng đến tim, não, gan, thận, khớp và mắt.
Theo bác sĩ Đỗ Duy Cường,
Giám đốc Trung tâm Bệnh Nhiệt đới, Bệnh viện Bạch Mai, Whitmore được coi là
"kẻ mạo danh" vì bệnh không có những biểu hiện lâm sàng rõ ràng và
thường bị chẩn đoán lâm sàng nhầm sang các bệnh khác như viêm phổi, lao phổi,
áp xe cơ, nhiễm trùng huyết do các vi khuẩn khác như tụ cầu, liên cầu... Chẩn
đoán chính xác bệnh phải dựa trên các xét nghiệm phân lập và định danh vi khuẩn
trong các mẫu bệnh phẩm máu, mủ, đờm, nước tiểu, hoặc dịch não tủy.
Whitmore không phải là bệnh
nhiễm trùng cơ hội, gặp ở mọi đối tượng từ trẻ sơ sinh đến người già, người khỏe
mạnh cho đến người có hệ miễn dịch yếu. Người có nguy cơ nhiễm Whitmore nhiều
nhất là nông dân nghèo, có tiền sử đái tháo đường, người nghiện rượu, người có
bệnh mạn tính về phổi và thận.
Theo báo cáo từ các vùng
có bệnh trên thế giới, tỷ lệ trẻ em mắc bệnh chiếm 5-15% tổng số ca Whitmore.
Khoảng 35% trẻ mắc bệnh có biểu hiện viêm mủ tuyến nước bọt mang tai, 65% ở các
thể khác như sốt cao, viêm phổi, áp xe ở lách và thận, cũng có thể biểu hiện
khu trú bằng các ổ nhiễm khuẩn trên da, đặc biệt ở vùng đầu, mặt và cổ. Diễn biến
nặng có thể gây sốc nhiễm khuẩn huyết dẫn đến tử vong.
Ở người lớn, đa số bệnh
nhân mắc bệnh có biểu hiện viêm phổi kèm nhiễm khuẩn huyết, viêm bàng quang, có
các vết mưng mủ trên da, một số trường hợp còn có biểu hiện viêm cơ, viêm khớp
hoặc viêm màng não.
Whitmore là bệnh vùng,
phân bố chủ yếu ở Đông Nam Á và phía Bắc Australia, trong đó vùng Đông Bắc Thái
Lan (gần với miền Trung Việt Nam) được coi là tâm điểm của dịch bệnh trên thế
giới. Singapore là đất nước có tỷ lệ người dân ít mắc bệnh nhất Đông Nam Á,
song hàng năm số người mắc Whitmore tại đất nước không làm nông nghiệp này rất
nhiều, trung bình tỷ lệ 1,3 người/100.000 dân.
Tại Việt Nam, khoảng 70%
ca Whitmore nhập viện trong khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 11. Số bệnh nhân tăng tỷ lệ thuận với lượng mưa. Đa
số bệnh nhân là nông dân, tuổi từ 50 đến 70, có bệnh nền đái tháo đường hoặc bệnh
mạn tính liên quan đến phổi và thận, có biểu hiện nhiễm khuẩn huyết và viêm phổi
khi nhập viện.
Quá trình điều trị
Whitmore chia làm 2 pha: Pha điều trị tấn công và pha duy trì uống kháng sinh.
Phải dùng kháng sinh (thường là nhóm ceftazidime) tiêm tấn công liều cao kéo
dài liên tục trong ít nhất khoảng 2 tuần, sau đó tiếp tục dùng kháng sinh duy
trì khoảng từ 3 đến 6 tháng nữa. Điều nguy hiểm là bệnh dễ tái phát, sức khỏe của
bệnh nhân rất dễ suy kiệt do bệnh tái đi tái lại hoặc nếu điều trị không đúng
phác đồ. Tỷ lệ bệnh nhân tử vong rất cao, tới 40%.
Đến nay Whitmore chưa có
vắcxin phòng bệnh.
Lê Nga
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét