CÔNG GIÁO, CHÍNH THỐNG GIÁO VÀ TIN LÀNH?
Hỏi:
Trong bài trước cha đã
nói đến các Đạo cùng tôn thờ Thiên Chúa nhưng khác nhau về nhiều mặt thần học,
tín lý, giáo lý, bí tích, phụng vụ .v.v
Xin cha nói rõ hơn về những khác biệt này giữa Công Giáo, Chính Thống và Tin
Lành.
Trả lời:
Như đã giải thích trong
bài trước, cả ba Nhánh Kitô Giáo trên đây, từ đầu, đều thuộc Đạo Thánh của Chúa
Kitô gọi chung là KitôGiáo (Christianity). Nhưng theo dòng thời gian, đã có những
biến cố gây ra tình trạng rạn nứt hay ly giáo (schisms) hoặc những cải cách (reformations)
đáng tiếc xảy ra khiến KitôGiáo bị phân chia thành 3 Nhánh chính trên đây.
Ngoài ra, còn một nhánh Kitô Giáo nữa là Anh Giáo (Anglican Communion) do vua
Henri VIII (1491-1547) của nước Anh chủ xướng năm 1534 để lập một Giáo Hội
riêng cho Nước Anh, tách khỏi Rôma chỉ vì Tòa Thánh La Mã (Đức Giáo Hoàng
Clement VII) không chấp nhận cho nhà vua ly di để lấy vợ khác.
Cho đến nay, các nhóm ly
khai trên vẫn chưa hiệp thông được với Giáo Hội Công Giáo vì còn nhiều trở ngại
chưa vượt qua được... Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng giới hạn trong câu hỏi được
đặt ra, tôi chỉ xin nên sau đây những dị biệt căn bản giữa ba Nhánh Kitô Gíáo lớn
trên đây mà thôi.
I- Chính Thống (orthodoxy) khác biệt với Công
Gíáo La Mã ( Roman Catholicism) ra sao
Trước hết, danh xưng
Chính Thống "Orthodoxy", theo ngữ căn (etymology) Hy lạp "
orthos doxa", có nghĩa là "ca
ngợi đúng (right-praise), "tin tưởng đúng " ( right belief) . Danh
xưng này được dùng trước tiên để chỉ lập trường của các giáo đoàn Kitô đã tham
dự các Công Đồng đại kết (Ecumenical Councils) Nicêa I (325) Ephêsô (431) và nhất
là Chalcedon (451) trong đó họ đã đồng thanh chấp thuận và đề cao những giáo lý
được coi là chân chính( sound doctrines) , tinh tuyền của KitôGíáo để chống lại
những gì bị coi là tà thuyết hay lạc giáo (heresy).Do đó,trong bối cảnh này, từ
ngữ "orthodoxy" được dùng để đối
nghịch với từ ngữ " heresy" có nghĩa là tà thuyết hay lạc giáo.
Nhưng sau biến cố năm 1054 khi hai Giáo Hội Kitô Giáo Hy Lạp ở Constantinople ( tượng
trưng cho Đông Phương) và Giáo Hội Công Giáo LaMã ( Tây Phương) đã xung đột và
ra vạ tuyệt thông cho nhau ( anthemas=excommunications) ngày 16 tháng 7 năm
1054 giữa Michael Cerularius, Thượng Phụ
Constantinople và Đức cố Giáo Hoàng Leo IX vì có những bất đồng lớn về tín lý,
thần học và quyền bính, thì danh xưng "Chính Thống" ( orthodoxy) lại
được dùng để chỉ Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople đã tách ra khỏi hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo La Mã. Sau
này, Giáo Hội "Chính Thống" Hy Lạp ở Constantinople đã lan ra các quốc
gia trong vùng như Thổ nhĩ Kỳ, Nga, Albania, Estonia, Cyprus, Finland, Latvia,
Lithuania, Rumania, Bulgaria, Serbia, Ukraine...Vì thế, ở mỗi quốc gia này cũng
có Giáo Hội Chính Thống nhưng độc lập với nhau về mọi phương diện.Nghĩa là
không có ai là người lãnh đạo chung của
các Giáo Hội này, mặc dù họ có tên gọi chung là các Giáo Hội Chính Thống Đông
Phương ( Eastern Orthodox Churches) tách khỏi khỏi Giáo Hội Công Giáo La
Mã.(Tây Phương)
Tuy nhiên, hiện nay Thượng
Phụ ( Patriarch) Giáo Hội Chính Thống Thổ Nhĩ Kỳ ở Istanbul được coi là Thượng Phụ Đại Kết ( Ecumenical
Patriarch) của các Giáo Hội Chính thông Đông Phương.Cách nay 6 năm Đức Thánh
Cha Bê-nê-đich tô 16 ( đã về hưu năm 2012) đã sang thăm Đức Thượng phụ Giáo Chủ
Chính Thống Thổ để tỏ thiện chí muốn đối thoại, đưa đến hiệp thông giữa hai
Giáo Hội anh em. Riêng Giáo Hội Chính Thống
Nga, cho đến nay, vẫn chưa tỏ thiện chí muốn xích gần lại với Giáo Hội Công
Giáo La Mã, vì họ cho rằng Công Giáo muốn "lôi kéo" tín đồ Chính Thống
Nga vào Công Giáo sau khi chế độ cộng sản ở Nga tan rã, tạo điều kiện thuận lợi
cho Giáo Hội Chính Thông Nga hành Đạo. Dầu vậy, một biến cố mới xẩy ra trong
năm qua (2016) là Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp Thượng Phụ Giáo Hội Chính Thông
Nga tại Mexico, nhưng kết quả của cuộc gặp gỡ lịch sử này giữa hai vi lãnh đạo
Công Giáo và Chính Thống Nga không được công bố sau đó. Nhưng đây là một dấu chỉ
tích cực giữa hai Giáo Hội anh em.
Trước khi xẩy ra cuộc ly
giáo năm 1054, hai Nhánh Kitô giáo lớn ở Đông và Tây phương (The Greek Church
and the Holy See=Rome) nói trên vẫn hiệp thông trọn vẹn với nhau về mọi phương
diện vì cả hai Giáo Hội anh em này đều là kết quả truyền giáo ban đầu của các
Thánh Tông Đồ Phêrô và Anrê. Lịch sử truyền giáo cho biết là Thánh Phêrô đã rao
giảng Tin mừng ở vùng đất nay là lãnh địa của Giáo Hội Công Giáo La Mã (Roma)
trong khi em ngài, Thánh Anrê (Andrew) sang phía Đông để rao giảng trước hết ở
Hy lạp và sau đó phần đất nay là Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey). Như thế, cả hai Giáo Hội
KitôGiáo Đông Phương Constantinople và Tây Phương Rôma đều có nguồn gốc Tông đồ
thuần túy (Apostolic succession).
Sau đây là những điểm gây
bất đồng khiến đi đến ly giáo (schism) Đông Tâ
1- về tín lý, Giáo Hội
Chính Thống Đông Phương- tiêu biểu ban đầu là Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople-
đã bất đồng với Giáo Hội Công Giáo La Mã về từ ngữ “ Filioque” ( và Con) thêm
vào trong Kinh Tin Kính Nicêa tuyên xưng “Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha, và Chúa Con mà ra”.
Giáo Hội Chính Thông Đông
Phương cũng không công nhận các tín điều về Đức Mẹ Vô Nhiễm Thai (Immaculate
Conception) và Lên Trời cả hồn xác (Assumption) mặc dù họ vẫn tôn kính Đức Mẹ
là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos). Sở dĩ thế, vì họ không công nhận vai trò lãnh đạo
Giáo Hội của Đức Giáo Hoàng, nên đã bác bỏ mọi tín điều được các Đức Giáo Hoàng
công bố với ơn bất khả ngộ (Infallibility) mà Công Đồng Vaticanô I (1870) đã
nhìn nhận.
Chính vì họ không công nhận
quyền và vai trò lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ của Đức Giáo Hoàng Rôma, nên đây là
trở ngại lớn nhất cho sự hiệp nhất (unity) giữa hai Giáo Hội Chính Thống và
Công Giáo cho đến nay, mặc dù hai bên đã tha vạ tuyệt thông cho nhau sau cuộc gặp
gỡ lịch sử giữa Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Giáo Chủ
Constantinople khi đó là Athenagoras I năm 1966.
Giáo Hội Chính Thống có đủ
bảy bí tích hữu hiệu như Công Giáo. Tuy nhiên, với bí tích rửa tội thì họ dùng nghi thức dìm xuống nước
(immersion) 3 lần để nhấn mạnh ý nghĩa tái sinh vào đời sống mới, trong khi
Giáo Hội Công Giáo chỉ dùng nước đổ trên đầu hay trán của người được rửa tội để
vừa chỉ sự tẩy sạch tội nguyên tổ và các tội cá nhân ( đối với người tân tòng)
và tái sinh vào sự sống mới, mặc lấy Chúa Kitô.
Chính vì Giáo Hội Chính
Thống có đủ các bí tích hữu hiệu như Công Giáo, nên giáo dân Công Giáo được
phép tham dự Thánh lễ và lãnh các bí tích hòa giải và sức dầu của Chính Thống nếu
không tìm được nhà thờ Công Giáo hay linh mục Công giáo khi cần..
2-Về phụng vụ, Giáo Hội
Chính Thống dùng bánh có men (leavened bread) và ngôn ngữ Hy lạp khi cử hành phung vụ trong khi Giáo Hội Công
Giáo dùng bánh không men (unleavened bread) và tiếng Latinh trong phụng vụ
thánh trước Công Đồng Vaticanô II, và nay là các ngôn ngữ của mọi tín hữu thuộc mọi nền văn hóa, chủng tộc khác nhau, trong
đó có tiếng Viêt Nam.
3-Sau hết, về mặt kỷ luật
giáo sĩ: các Giáo Hội Chính Thông cho
phép các phó tế và linh muc được kết hôn trừ Giám mục, trong khi kỷ luật độc
thân (celibacy) lại được áp dụng cho mọi
cấp bậc trong hàng giáo sĩ và tu sĩ Công Giáo, trừ phó tế vĩnh viễn (permanent
deacons).
Đó là những khác biệt căn
bản giữa Giáo Hội Chính Thống Đông Phương và Giáo Hội Công Giáo La Mã ch đến
nay.
Tuy nhiên, dù có những
khác biệt và khó khăn trên đây, Giáo hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống Đông
Phương đều rất gần nhau về nguồn gốc tông đồ và về nền tảng đức tin, giáo lý,
bí tích và Kinh thánh. Vì thế, giáo lý của
Giáo Hội Công Giáo đã dạy rằng: “Đối với các Giáo Hội Chính thống, sự hiệp
thông này sâu xa đến nỗi “chỉ còn thiếu một chút là đạt được mức đầy đủ để có
thể cho phép cử hành chung phép Thánh Thể của Chúa Kitô” (x.SGLGHCG, số 838).
Vì Chính Thống Giáo có đủ
bảy bí tích hữu hiệu, nên giáo dân Công Giáo được phép tham dự Thánh Lễ và lãnh
các bí tích hòa giải và sức dầu ở nhà thờ
và các linh mục Chính Thống, nếu không tìm được nhà thờ và linh mục Công Giáo
nơi mình cư ngụ.
II- Tin lành (Protestantism) và những khác biệt với Công Giáo.
Như đã nói trong bài trước,
Tin lành, nói chung, là Nhánh KitôGíáo đã tách ra khỏi Giáo Hội Công Giáo sau
những cuộc cải cách tôn giáo do Martin Luther, một linh mục Dòng thánh
Augustinô, chủ xướng vào năm 1517 tại Đức và lan sang Pháp với John Calvin và Thụy
sỹ với Ulrich Zwingli và các nước Bắc Âu
sau đó.Hiện nay có hàng chục ngàn giáo phái này ở Mỹ, hoạt động với nhiều danh
xưng khác nhau, nhưng cùng ít nhiều có liên hệ đến nguồn gốc thệ phản (
protestantism)nói trên. Một đặc điểm của các giáo phải Tin Lành là họ không có
hệ thống giáo quyền ( Hierachy) chung như Giáo Hội Công Giáo có hàng giáo phẩm
tối cao từ trung ương Roma cho đến các giáo hội địa phương ở mỗi quốc gia.Các
nhánh Tin Lành hầu như độc lập với nhau về quyền bính, nhân sự, tài chính và phương thức hành đạo.
1-Ở
góc độ thần học,
Những người chủ trương cải
cách (reformations) trên đã hoàn toàn bác bỏ mọi nền tảng thần học về bí tích
và cơ cấu tổ chức giáo quyền (Hierachy) của Giáo Hội Công Giáo. Họ chống lại
vai trò trung gian của Giáo Hội trong việc hòa giải con người với Thiên Chúa
qua bí tích tha tội hay hòa giải (reconciliation) vì họ không nhìn nhận bí tích
truyền chức thánh (Holy Orders) qua đó Giám mục, Linh mục được truyền chức
thánh và có quyền tha tội nhân danh Chúa Kitô (in persona Christi) cũng như thi
hành mọi sứ vụ (ministry) thiêng liêng khác. (rửa tội, thêm sức, thánh thể, Xức
dầu thánh, chứng hôn).
Điểm căn bản trong nền thần
học của Tin Lành là con người đã bị tội tổ tông phá hủy mọi khả năng hành thiện
rồi (làm việc lành), nên mọi nỗ lực cá nhân để được cứu rỗi đều vô ích và vô
giá trị. Do đó, chỉ cần tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô dựa trên Kinh Thánh là
được cứu rỗi mà thôi. (Sola fide, sola scriptura).
Ngược lại, Giáo Hội Công
Giáo tin rằng con người vẫn có trách nhiệm cộng tác với ơn Chúa để được cứu rỗi.
Nói khác đi, muốn được cứu độ, con người phải cậy nhờ trước hết vào lòng thương
xót vô biên của Thiên Chúa và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô, nhưng
cũng phải có thiện chí công tác với ơn thánh để sống và thực thi những cam kết
khi được rửa tội. Nếu không, Chúa không thể cứu ai được như Chúa Giêsu đã nói
rõ:
“không phải bất cứ ai
thưa với Thầy: lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ có ai
thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt
7:21).
Nói khác đi, không phải rửa
tội xong, rồi cứ hát Alleluia và kêu danh Chúa Kitô là được cứu độ. Điều quan
trong hơn nữa là phải sống theo đường lối của Chúa, nghĩa là thực thi những cam
kết khi được rửa tội: đó là mến Chúa, yêu người và xa lánh tội lỗi. Nếu không,
rửa tội và kêu danh Chúa thôi sẽ ra vô ích.
Anh em tin lành không
chia sẻ quan điển thần học này, nên họ chỉ chú trọng vào việc đọc và giảng Kinh
Thánh nhưng không nhấn mạnh đến phần đóng góp của con người như Chúa Giêsu đòi
hỏi trên đây. Ngoài phép rửa và Kinh Thánh, họ không tin và công nhận một bí
tích nào khác. Điển hình
Là bí tích hòa giải mà
các giám mục và linh mục Công Giáo được phép tha tội cho các hối nhân nhân danh
Chúa Kito (in persona Christi).
Lại nữa, vì không công nhận
phép Thánh Thể, nên họ không tin Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong hình bánh và rượu, mặc dù một số Giáo phái Tin
lành có nghi thức bẻ bánh và uống rượu nho khi họ tụ họp để nghe giảng kinh
thánh., Nhưng đó không phải là cử hành Bí Tích Thánh Thể ( Eucharist) như trong
Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Giáo Đông Phương.. Sứ vụ quan trọng của họ chỉ
là giảng kinh thánh vì họ chỉ tin có
Kinh Thánh ( Sola Scriptura) mà thôi.
2- Nhưng Kinh Thánh được cắt nghĩa theo cách hiểu
riêng của họ, nên có rất nhiều mâu thuẫn hay trái ngược với cách hiểu và cắt
nghĩa của Giáo Hội Công Giáo.
Thí dụ, câu Phúc Âm trong
Matthêu 22 : 8-9 trong đó Chúa Giêsu dạy các tông đồ “ không được gọi Ai dưới đất là Cha, là Thầy .”. anh em Tin Lành
hiểu lời Chúa trong ngữ cảnh (context)
câu trên hoàn toàn theo nghĩa đen (literal meaning) nên đã chỉ trích
Giáo Hội Công giáo là ‘lạc giáo=heretical” vì đã cho gọi Linh mục là “ Cha”
(Father, Père, Padre)!.
Thật ra, Giáo Hội cho
phép gọi như vậy, vì căn cứ vào giáo lý của Thánh Phaolô, và dựa vào giáo lý
này, Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế
Tín lý Lumen Gentium đã dạy rằng; “ Linh mục phải chăm sóc giáo dân như những
người cha trong Chúa Kitô vì đã sinh ra
họ cách thiêng liêng nhờ phép rửa và giáo huấn.” (1 Cor 4: 15; LG. số 28).
Một điểm sai lầm nữa
trong cách đọc và hiểu kinh thánh của Tin lành là câu Phúc Âm Thánh Marcô kể lại
một ngày kia Chúa Giêsu đang giảng dạy cho một đám đông người thì Đức Mẹ cà các
môn đệ của Chúa đến. Có người trong đám đông đã nói với Chúa rằng: “Thưa Thầy
có mẹ và anh em, chị em của Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy.” (Mc 3:32). Anh em
tin lành đã căn cứ vào câu này để phủ nhận niềm tin Đức Mẹ trọn đời đồng trinh
của Công Giáo và Chính thống, vì họ cho rằng
Mẹ Maria đã sinh thêm con cái sau khi sinh Chúa Giêsu. Nghĩa là họ chỉ
tin Đức Mẹ đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giêsu mà thôi. Thật ra cụm từ “anh
chị em “trong ngữ cảnh (context) trên đây chỉ là anh chị em theo nghĩa thiêng
liêng (spiritual brotherhood, sisterhood)
và đây là cách hiểu và giải thích Kinh Thánh của Công Giáo và Chính Thống,
khác với Tin lành.
Sau hết, về mặt quyền bình, các giáo phái Tin lành đều không công
nhận Đức Giáo Hoàng là Đại Diện (Vicar) duy nhất của Chúa Kitô trong sứ mạng
chăn dắt đoàn chiên của Người trên trần thế.
Chính vì không công nhận
Đức Giáo Hoàng là Thủ Lãnh Giáo Hội duy nhất của Chúa Kito nên đây là trở ngại
lớn cho các nhánh Tin Lành muốn hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo.
3- Về bí tích:
Tất cả các nhóm Tin Lành và Anh Giáo đều không
có các bí tích quan trọng như Thêm sức, Thánh Thể, Hòa giải, Sức Dầu bệnh nhân
và Truyền Chức Thánh vì họ không có nguồn gốc Tông Đồ ( Apostolic
succession)- và quan trọng hơn nữa, người
sáng lập của họ là người thường ( Martin Luther, John Calvin..Henry XIII) chứ
không phải là chính Chúa Giêsu-Kitô, Đấng đã lập Giáo Hội của Chúa trên Đá Tảng
Phêrô.( Mt 16: 18-19) và “ Giáo Hội này
tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo do Đấng kế vị Phê rô và các Giám mục hiệp
thông với Ngài điều khiển” như Thánh Công Đồng Vaticanô II đã nhìn nhận. ( x.
LG. số 8). Cho nên các nhánh Tin Lành và Anh giáo đều không có chức linh mục và giám mục hữu hiệu
để cử hành các bí tích trên.
Đa số các nhóm Tin Lành
và Anh Giáo chỉ có phép rửa ( Baptism)
mà thôi. Nhưng nếu nhóm nào không rửa tội với nước và công thức Chúa Ba Ngôi
(The Trinitarian Formula) như nhóm Bahai Hullah, thì không thành sự ( invalidly) . Do đó, khi
gia nhập Giáo Hội Công Giáo, tín hữu Tin Lành nào không được rửa tội với nước
và công thức trên thì phải được rửa tội lại như người dự tòng.(catechumens). Nếu họ được rửa tội thành
sự thì chỉ phải tuyên xưng đức tin khi gia nhập Công Giáo mà thôi.
Đó là những khác biệt căn
bản giữa Công Giáo và Tin Lành nói chung. Tuy nhiên, Giáo Hội Công Giáo vẫn hướng
về các anh em ly khai này và mong ước đạt được sự hiệp nhất với họ qua nỗ lực đại
kết (ecumenism) mà Giáo hội đã theo đuổi và cầu nguyện trong nhiều năm qua.
Chúng ta tiếp tục cầu xin
cho mục đích hiệp nhất này giữa những người có chung niềm tin vào Chúa Kitô
nhưng đang không hiệp thông (communion) và hiệp nhất ( unity) với Giáo Hội Công
Giáo, là Giáo Hội duy nhất Chúa Giêsu đã thiết lập trên nền tảng Tông đồ Phêrô, do Đức Thánh Cha, cũng là Giám
Mục Roma coi sóc và lãnh đạo với sự cộng tác và vâng phục trọn vẹn của Giám Mục
Đoàn. (College of Bishops).
Ươc mong những giải đáp
trên thỏa mãn câu hỏi đặt ra.
Lm. Phanxicô Xaviê Ngô
Tôn Huấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét