NGUYÊN NHÂN NÀO ĐÃ GÂY RA NHỮNG CUỘC LY GIÁO TRONG GIÁO HỘI?
Hỏi:
Xin cha giải thích rõ hai thắc mắc quan trọng sau đây:
1. Vì sao trong quá khứ có lần Tòa Thánh La Mã
lại ở Avignon, Nước Pháp?
2. Nguyên nhân nào đã gây ra cuộc ly giáo Tây
Phương. (Western Schism), và ly giáo Đông Tây? (Eastern Schism)?
Trả lời:
Giáo Hội mà Chúa Kitô thiết
lập trên nền tảng Tông Đồ dã trải qua nhiều
biến cố từ buổi ban đầu cho đến ngày nay.Về mặt tín lý, đã có những tà thuyết (
heresies) và bội giáo (Apostacies) xuất
hiện khiến Giáo Hội phải chiến đấu để vượt qua hầu giữ vững đức tin Kitô Giao
tinh tuyền. Thêm vào đó là sự rạn nứt trong sự hiệp thông và hiệp nhất ( communion, unity) gọi
chung là ly giáo ( schism) đã xảy ra và còn kéo dài cho đến ngày nay, khiến
Giáo Hội của Chúa bị phân chia thành hai nhánh chính là Công Giáo La Mã ( Roman
Catholicism) và Chính Thống Giáo Đông Phương ( Eastern Orthodox Churches) không
còn hiệp thông và hiệp nhất với nhau từ
năm 1054 cho đến nay.
Ngoài ra, còn phải kể
thêm các nhóm khác đã tách ra khỏi hiệp thông và hiệp nhất với Giáo Hội, như
các nhóm Tin Lành( Protestantism) và Anh Giáo ( Anglican Communion) đã tách ra khỏi Giáo Hội Công Giáo La Mã từ
thế kỷ 16 cho đến nay.
Về việc Toà Thánh có lần
đã “di cư” sang Avignon, thì đây là biến cố duy nhất trong lịch sử Giáo Hội, xảy
ra việc Tòa Thánh La Mã đã “di cư” sang Pháp, đóng tại thành phố Avignon trong
một thời gian khá lâu dài là 68 năm, kể từ năm 1309 đến năm 1377 . Các sử gia
đã gọi thời kỳ này là “cuộc lưu đầy, hay cầm tù Babilone của Ngôi vị Giáo Hoàng
(The Babilonian captivity of the papacy).
Nguyên nhân của “cuộc lưu
đầy” này có thể được tóm tắt như sau :
Vào thời kỳ cuối thế kỷ
12 và trong thế kỷ 13 , các phe phái
chính trị và tôn giáo ở Ý và Pháp đã muốn
tranh dành ảnh hưởng đối với Giáo Hội Công Giáo La Mã, nên đã là nguyên nhân
chính khiến Ngai Tòa Phêrô bị di chuyển
từ Rôma sang Avignon, Pháp, từ năm 1309 dưới triều Đức Giáo Hoàng Clement V (người
Pháp ) ( 1305- 1316).
Ngài được Hồng Y đoàn bầu
lên năm 1309 với hy vọng làm dịu bớt căng thẳng giữa các phe người Pháp và Ý
đang muốn dành ảnh hưởng đối với Giáo Hôi sau những năm sóng gió dưới triều Đức
cố Giáo Hoàng Boniface VIII (1294- 1303).
Vì là người Pháp, nên Đức
Clement V đã mang Tòa Thánh từ Rome về Avignon, một thành phố phía nam nước
Pháp, năm 1309 để tránh phải đương đầu với gia đình Colonna, đầy quyền lực ở Ý
khi đó , đang muốn nắm quyền cai trị về mọi phương diện chính trị, xã hội và tôn giáo ở Rôma trong thời
điểm đó. Ngài được Hồng Y đoàn bầu lên ngôi Giáo Hoàng năm 1309 như một nhượng
bộ nhằm hòa giải giữa hai phe người Ý và
Pháp đang có ảnh hưởng lớn trong Giáo Hội Công Giáo Tây phương lúc bấy giờ,
nhưng đã không đạt được mục đích mong muốn .Vì thế, Đức Giáo Hoàng Clement V đã mang Tòa Thánh về
Avignon để tránh áp lực của các thế lực người Ý đang muốn dành quyền chi phối
Giáo Hội trong gian đoạn khó khăn đó.
Tuy nhiên, khi cư trú
trên đất Pháp, thì 7 Giáo Hoàng kế tiếp nhau lên ngôi ở đây cũng không tránh được bị chi phối và ảnh hưởng cúa các nhà vua trị vì Nước Pháp trong suốt
thời kỳ này. Dầu vậy, truyền thống Tông Đồ ( Apostolic succession) vẫn được tôn trọng trong việc chọn Giáo Hoàng cũng như
sứ vụ tông đồ vẫn được tiếp tục theo truyền thống trong việc cai quản Giáo Hội,
mặc dù có bị thế quyền Pháp chi phối phần
nào do việc Giáo Hội nằm trên lãnh thổ của Nước Pháp trong suốt 68 năm, với 7
Giáo Hoàng được bầu lên cách hợp pháp và có tên sau đây :
Clement V 1305-1316)
Joan XXII (1316-1334)
Benedict XII (1334-1342)
Clement VI (1342-1352)
Innocent VI (1352-1362)
Urbano V (1362-1370)
Gregory XI ( 1370- 1378)
Đức Gregory XI là Giáo Hoàng cuối cùng tại Avignon, đã quyết định mang Tòa Thánh trở
lại Rôma năm 1377, do công khởi thủy của Đức Giáo Hoàng Urbano V ( 1362-
1370) và đặc biệt thể theo lời khẩn khoản
nài van của nữ tu bí nhiệm Dòng ĐaMinh ( Mystic Dominican Sister) mà sau này đã
trở thành Thánh Nữ Catherine thành
Sienna.
Nhưng dù Tòa Thánh được mang trở lại Rôma với Đức Giáo Hoàng Gregory
XI , Giáo Hội vẫn chưa an vị được ở
Rôma, mà còn xảy ra cuộc ly giáo Tây phương
(Western Schism) giữa những người cùng hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo
La Mã về phía Tây phương vì lý do sau
đây:
2-
Ly Giáo Tây Phương (Western Schism)
Từ ngữ ly giáo ( schism) xuất phát từ nguyên ngữ Hy lạp “ schisma” có nghĩa là xé rách ra ( tear off ). Do đó, từ ngữ này được dùng để chỉ một tình trạng hay sự kiện
rạn nứt trong sự hiệp nhất của Giáo Hội ( Unity in the Church) .Nhưng khác với tà giáo hay lạc giáo ( heresy) và bội
giáo ( Apostacy) , ly giáo ( schism) không nhằm chối bỏ một chân lý nào của
Kitô Giáo, hay đặt lại vấn đề về một tín
lý nào,( dogma) mà chỉ là gương xấu đưa đến hậu quả làm mất sự hiệp thông (
communion) và hiệp nhất ( unity ) trong Giáo Hội do một vài phe nhóm chủ xướng mà thôi.
Cụ thể, quyết định mang Tòa Thánh trở lại Rôma của Đức Giáo Hoàng Gregory XI đã bị các
Hồng Y và thế quyền Pháp chống đối, nên
sau khi Đức Gregory XI qua đời ngày 27 tháng 3 năm 1378, Đức Urban VI được bầu lên kế vị ở Rôma , thì các Hồng Y
người Pháp ở Avignon lại bầu một ngụy Giáo Hoàng (antipope) lên ngôi và lấy danh hiệu là Clement VII để tranh ngôi
Giáo Hoàng với Đức Urban VI ở Rôma .
Và đây là nguyên nhân gây
ra cuộc ly giáo Tây Phương trong Giáo Hội,
kéo dài từ năm 1378 cho đến năm 1417 với
hai Giáo Hoàng tại chức , một ở Avignon và một ở Roma; và sau này có thêm một
Giáo Hoàng nữa do Công Đồng Pisa bầu lên, như sẽ nói sau đây.
Cuộc ly giáo trên đã xẩy ra vì có hai phe tranh giành ngôi vị
Giáo Hoàng trong thời gian sóng gió đó. Trước hết là phe các nước nói tiếng
Latinh và Pháp ủng hộ Giáo Hoàng Clement VII ở Avignon, đối đầu với phe người Đức
và Anh ủng hộ Giáo Hoàng Urban VI ở Rome..
Giáo Hoàng Clement VII mất
năm 1394 và người kế vị được bầu lên thay là Benedict XIII, tiếp tục cai trị ở
Avignon. Ở bên kia, Giáo Hoàng Urban VI cũng mất năm 1397, và người kế vị được
bầu lên là Gregory XII, người Roman. Như vậy trong thời kỳ này có hai giáo
hoàng cùng tranh ngôi , một ở Pháp và một ở Rôma
Để giải quyết tình trạng
này, các Hồng y và nghị phụ đã họp Công đồng tại Písa ngày 29-3-1409 và bầu
Giáo Hoàng mới lấy danh hiệu là Alexander V, nhưng ngài chưa kịp về Roma nhậm
chức thì đã mất ở Bologna ngày 3-5-1410, và người kế vị được bầu lên ngày 17-5-1411 đã lấy danh hiệu là Gioan
XXIII. Nhưng tân Giáo Hoàng này tỏ ra là người không có đủ tài đức và khả năng
lãnh đạo Giáo Hội, lại được bầu lên nhờ áp lực và tham vọng cá nhân, nên bị coi
là nguy giáo hoàng (antipope), và buộc phải thoái vị.
Như vậy, Giáo Hội một lúc có tới ba Giáo Hoàng cùng tranh giành
Ngôi Tòa Phê rô: Đó là Gioan XXIII do
Công Đồng Pisa bầu lên ngôi ngày 17-5-1411, trong lúc có hai Giáo Hoàng nữa
đang tại chức là Benedict XIII ở Avignon
và Gregory XII ở Rome như đã nói ở trên.
Vì thế, để giải quyết tình trạng bế tắc và gây tai tiếng trên đây , theo sáng
kiến của Hoàng Đế Rôma là Sigismund of Luxembourg, Công Đồng Constance được triệu tập ngày
1-11-1417 như một cố gắng cuối cùng để giải quyết tình trạng ly giáo do việc ba Giáo Hoàng trên cùng tranh
nhau quyền cai trị Giáo Hội. Kết quả, Công Đồng đã thuyết phục được Giáo Hoàng Gregory XII từ chức, hạ bệ ngụy
giáo Hoàng Gioan XXIII, và truất phế vắng mặt Giáo Hoàng Benedict XIII ở
Avignon.( ông này đã bỏ chậy trốn khi biết không còn hy vọng ở yên trên ngôi vị Giáo Hoàng được nữa)
Sau đó, ngày
11-11-1417 Công Đồng Constance đã bầu được Giáo Hoàng mới là Oddo Colonna , một nghị phụ tham dự Công Đồng,
lên ngôi với danh hiệu Martin V để chấm
dứt cuộc ly giáo Tây Phương kéo dài từ năm 1378 đến năm 1417.
Martin V là một thường
dân ( layman) trí thức, đạo đức nhưng
không có chức linh mục và giám mục. Nên
sau khi được bầu lên, ngài đã được truyền
chức linh mục và giám mục trước khi đăng quang Giáo Hoàng với danh hiệu Marin V.
Như thế , Công Đồng Constance đã đạt được thành quả lớn : đó là chấm dứt cuộc ly giáo Tây phương kéo
dài từ năm 1378 đến 1417. Cuộc ly giáo
này xảy ra chỉ vì các phe nhóm có thế lực ở Âu Châu, cụ thể là Pháp và Ý,
đã tranh dành ảnh hưởng để dành ngôi vị
Giáo Hoàng của Giáo Hội La Mã. Có thể nói tắt một điều: đây là hậu quả của thời
kỳ thế quyền và thần quyền lẫn lộn tranh
giành quyền cai trị Giáo Hội nên đã gây ra cuộc ly giáo đáng tiếc nói trên.
Có một chi tiết đáng chú
ý trong giai đoạn ly giáo này là sự kiện
Giáo Hoàng Gioan XXIII , lên ngôi năm 1410,
bị coi là ngụy giáo hoàng ( antipope) vì không được bầu lên cách hợp
pháp , lại thêm kém tài đức và nhân cách.Vì thế, sau này, khi Đức Hông Y Roncali được bầu Giáo
Hoàng ngày 28 tháng 10 năm 1958, để kế vị Đức Thánh Cha Piô XII qua đời ngày
9-10-1958, ngài đã lấy lại danh hiệu
Gioan XXIII để cai trị Giáo Hội cho đến ngày qua đời. (3-6-1963). Sư kiện này đủ
minh chứng là “ngụy giáo hoàng Joan XXIII được Công Đồng Pisa bầu lên ngày
17-5- 1411 là bất hợp pháp.
Trên đây là đại cương nguyên nhân và diễn tiến cuộc ly giáo Tây Phương, một vết
thương trong thân thể của Giáo, mặc dù
chỉ kéo dài trong 38 năm., trong khi một vết thương khác lớn hơn và kéo dài hơn
nữa cho đến nay : đó là cuộc ly giáo
Đông Phương ( Eastern Schism) xảy ra giữa
Giáo Hội Công Giáo Rôma và Giáo Hội Chính Thống Constantinople ( Hy Lạp) bắt đầu từ năm 1054 cho đến nay. Và chưa biết đến bao
giờ mới có thể chấm dứt vĩnh viễn để Giáo Hội của Chúa Kitô được hiệp thông và
hiệp nhất trong cùng một sứ mệnh tuyên
xưng đức tin Kitô Giáo và phúc âm hóa thế giới, để mang ơn cứu độ của Chúa Kitô
đến với hết mọi người trên toàn thế giới, không phân biệt màu da, tiếng nói và
văn hóa, cho đến ngày mãn thời gian.
3. Sau đây là nguyên nhân của cuộc ly giáo Đông Tây:
Cuộc ly giáo này đã xảy ra bắt đầu từ năm 1054 khi Giáo Hội Đông Phương mà đại diện
khi đò là Michael Celarius ,Thượng Phụ
Giáo Chủ Constantinoble và đại diện Giáo Hội Tây Phương là Đức Thánh Cha Leo
IX. Đôi bên đã gia vạ tuyệt thông cho
nhau vì những bất đồng liên quan đến tín lý và đặc biệt là về vai trò lãnh đạo
Giáo Hội của Đức Giáo Hoàng, Giám mục Roma.
Trước hết về từ ngữ thì từ
orthodoxy, theo ngữ căn Hy lap ( orthosdoxa) có nghĩa là ca ngợi đúng ( right
praise) tin tưởng đúng ( right belief). Danh từ này được dùng trước tiên để chi
lập trường của những giáo đoàn Kitô khi tham dự các Công Đồng Đại kết (
Ecumenical Councils) Nicea I ( 325 A,.D) Ephesô ( 431) và Chalcedon (451)trong
đó, họ đồng thanh chấp nhận những giáo lý được coi là tinh tuyền của KitôGiáo
=Christianity để đối nghịch với những gì
bị coi là “tà thuyết hay lạc giáo=heresy ,
Nhưng sau này, từ ngữ
Orthodoxy lại được dùng để chỉ lập trường của các Giáo Hội Đông Phương ( Eastern Churches) mà tiêu biểu là Giáo đoàn
Constantinoble ( Hy Lạp) đối nghịch với Giáo Hội Phương Tây mà tiêu biểu là
Giáo Hội Công Giáo La Mã ( Roman Catholic Church).
Về tín lý, đôi bên đã bất
đồng về từ ngữ “ Filioque ( và Con) trong Kinh Tin Kinh Nicea tuyên xưng Chúa
Thánh Thần bởi Chúa Cha và Con (Chúa Con) mà ra. Quan trọng hơn nữa là Giáo Hội
Chính Thống Hy Lap không công nhận Đức Thánh Cha là Đấng thay mặt ( Vicar) Chúa
Kitô trong vai trò Thủ Lãnh Giáo Hội Công Giáo
hoàn vũ La Mã.Vì không công nhận vai trò của Đức Giáo Hoàng, nên các
Giáo Hội Chính Thông Đông Phương cũng không công nhận các tín điều do các Giáo
Hoàng công bố , đặc biệt là ơn bất khả ngộ ( infallibility) của Đức Thánh Cha
trong hai lãnh vực đức tin và luân lý mà
Công Đồng Đai Kết Vaticanô I (1870) đã tuyên bố. Vì những bất đồng này
mà đôi bên đã gia vạ tuyệt thông cho nhau =Anthemas=Excommunication ngày
16-7-1054 giữa Thượng Phụ Chinh Thống Hy Lạp Michael Cerularius và Đức Giáo
Hoàng Leô IX.
Cuộc ly giáo Đông Tây này
vẫn kéo dài cho đến ngày nay, mặc dủ đôi đã tha vạ tuyệt thông cho nhau
sau cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đức Thánh
Cha Phaolô VI và Thượng Phụ Giáo Chủ Constantinoble năm 1966.
Đôi bên đều có thiện chí muốn hiệp thông
(communication) và hiệp nhất ( unity)
trong cùng một Giáo Hội do Chúa Kitô đã thiết lập trên nền tảng Tông Đồ.
Chúng ta tiếp tục cầu xin
cho sự hợp nhất của Giáo Hội sớm được thực hiện qua cố lực đại kết ( ecumenism) mà cả hai Giáo Hội Công
Giáo La Mã và Chính Thống Đông Phương đều
đã có thiện chí theo đuổi trong mấy thập niên qua.
Nhưng kết quả cụ thể cho đến nay vẫn còn rất xa vời, vì trở ngại lớn
nhất vẫn là ngôi vị Giáo Hoàng, Giám mục Roma, mà anh em Chính Thống Đông Phương vẫn không
công nhận là vị lãnh đạo duy nhất kế vị Thánh Phê rô trong sứ mệnh cai trị Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ ( Universal Catholic
Church) mà Chúa Kitô dã thiết lập trên nền tảng Tông Đồ để tiếp tục Sứ mệnh rao
giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa cho đến ngày mãn thời gian.
Các nhóm Tin Lành và Anh
giáo cũng đều không công nhận Đức Giáo Hoàng là Thủ Lãnh duy nhất Giáo Hội của Chúa Kitô, nên việc hiệp thông
và hiệp nhất với các nhóm này đều trở
nên khó khăn vì trở ngại này.
Uớc mong những giải đáp
trên thỏa mãn các câu hỏi đặt ra.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét