Bí ẩn những nữ thái giám trong hậu cung xưa
30/04/2018-kienthuc.net.vn
Tượng nữ thái giám
Để biến người con gái
bình thường thành nữ thái giám, một phương pháp vô cùng tàn bạo đã được tiến
hành: Người ta dùng gậy nhỏ đập vào bụng người phụ nữ để cho dạ con sa xuống,
không thể thụ thai, mang thai và sinh đẻ được.
Từ truyền thống hoạn quan
Chữ Hán, có hơn ba mươi từ
ngữ dùng để chỉ hoạn quan, nên thường giải thích hoạn quan là thái giám. Nhưng
kỳ thực, khái niệm về hai từ này có chỗ khác biệt. Mới đầu, hoạn quan không nhất
thiết phải là người bị thiến. Trong lịch sử Trung Quốc cổ xưa đã có hoạn quan.
"Hoạn quan" chỉ là danh xưng chỉ chung những quan viên phục dịch, hầu
hạ hoàng đế và gia tộc trong hoàng cung.
Từ thời Tây Chu đã xuất
hiện hoạn quan và được gọi là tự nhân, hoặc hạng nhân, yêm doãn, nội tiểu thần.
Đến thời Chiến Quốc, nước Triệu có Hoạn giả lệnh coi về hoạn quan. Nước Tần có
hoạn quan đảm nhận chức Xa phủ lệnh. Sau khi Tần thống nhất Trung Nguyên, hoạn
quan có người làm đến Thừa tướng, gọi là Trung thừa lệnh. Thời Tây Hán có những
hoạn quan đảm nhận các chức Hoàng môn lệnh, Dịch đình lệnh.
Cho đến đầu đời nhà Đông
Hán, khi Lưu Tú quang phục lại Hán thất, mới ban lệnh hoạn quan tất yếu phải là
người đàn ông bị thiến. Từ ngữ "thái giám" xuất hiện sớm nhất vào đời
Đường Cao Tông Lý Trị năm Long Sóc nhị niên, tức năm 662, khi đem thay đổi danh
xưng "Điện trung tỉnh", cơ cấu chuyên lo việc xa giá, y phục trong
hoàng cung thành "Trung ngự phủ", và cải "Giám thành trung ngự"
thành "thái giám" và "thiếu giám". Đến đầu đời nhà Minh thiết
lập "Nhị thập tứ nha môn", mỗi nha môn đặt ra một thái giám giữ ấn
tín phục dịch hoàng đế cùng gia thuộc, và người được giữ chức thái giám tất yếu
phải là hoạn quan.
Từ đấy, "thái
giám" thành danh xưng chuyên chỉ hoạn quan. Đến giữa thời kỳ nhà Minh, quyền
thế của thái giám được mở rộng thêm ra. Thái giám có quyền làm sứ giả, trông
coi quân đội, coi xét quan lại, dân tình nên trở thành lộng quyền. Đến đời nhà
Thanh, xét thấy sự chuyên quyền và tệ hại của thái giám mới đặt ra chức "Tổng
quản Thái giám" làm thủ lãnh, lệ thuộc vào "Nội vụ phủ" và giới
hạn tước vị đến "tứ phẩm" để nhằm làm giảm quyền lực của thái giám.
Theo các nhà nghiên cứu,
nguồn gốc ra đời hoạn quan ở Trung Quốc có ba nguyên nhân chủ yếu.
Thứ nhất, hoạn
quan là những tội phạm, tù binh hoặc phản nghịch bị cắt sinh thực khí.
Thư hai,
hoạn quan là cống phẩm của địa phương tiến cống vào cung đình. Thứ ba, đó là những
người đàn ông tự nguyện xin thiến làm hoạn quan để mưu cầu phú quý.
Loại trừ những
người bị khiếm khuyết khi sinh ra, đa phần hoạn quan đều phải trải qua những thủ
thuật hết sức đau đớn gọi là tịnh thân.
Việc tịnh thân được diễn
ra cụ thể như thế nào, sử sách Trung Quốc xưa ghi lại cũng bất nhất. Nhưng nhìn
chung, để từ một nam giới bình thường thành một quan hoạn, người đàn ông phải
trải qua những nỗi đau đến tàn khốc bậc nhất trong cuộc đời của mình. Lịch sử
Trung Quốc đã ghi lại một số cách thức để tạo ra một hoạn quan cho triều đình.
Cách thức đầu tiên được gọi với tên “cắt tận gốc”.
Thực hiện phương pháp
này, người ta dùng dao sắc hoặc một vật dụng kim loại như kiếm hoặc rìu cắt đứt
tận gốc dương vật của nam giới, bao gồm cả phần âm kinh và dịch hoàn. Cách thức
này được miêu tả như một hình thức vô cùng tàn bạo. Những người sau khi sử dụng
phương pháp này đều rất đau đớn, thậm chí có thể bị hôn mê kéo dài. Cách thứ hai
mà người Trung Quốc sử dụng đó là chỉ cắt bỏ dịch hoàn bằng một con dao sắc.
Cách thức này nhân đạo ở chỗ, sẽ không cắt hết toàn bộ cơ quan sinh dục.
Mặc dù vậy những người bị
cắt bỏ dịch hoàn cũng sẽ không thể quan hệ tình dục và có con. Ngoài hai phương
pháp tịnh thân trên, có nhiều gia đình chuẩn bị việc tịnh thân cho con mình
tương lai sẽ làm thái giám ngay từ khi còn nhỏ. Một bà mụ sẽ được gia đình thuê
để có thể chăm sóc đặc biệt cho đứa trẻ ngay từ khi còn nằm trong nôi.
Mỗi ngày ba lần, bà mụ sẽ
nắn bóp dịch hoàn đứa trẻ. Lực bóp cũng tăng thêm khi đứa trẻ đó lớn. Chính vì
thế cơ quan sinh dục của đứa bé dần dần bị hủy hoại. Khi lớn lên, không những mất
khả năng sinh dục mà dương vật còn teo dần khiến đứa trẻ có nhiều nữ tính,
không có yết hầu, hai vú nhô cao, mông nở, giọng nói lanh lảnh, dáng điệu ẻo lả
và trở thành “ái nam, ái nữ”.
Theo sách “Mạt đại thái
giám bí văn” còn liệt kê một phương pháp thiến nữa là "thằng hệ
pháp", tức dùng dây cột chặt dịch hoàn của đứa bé, lâu dần thực khí mất
công năng, bị chết đi. Hoặc cho đứa trẻ uống một thứ thuốc tê gọi là ma túy dược,
rồi dùng kim chích hoài vào dịch hoàn đứa trẻ khiến cho sinh thực khí không còn
công năng nữa.
Thông thường, số người bị
nhiễm trùng dẫn tới tử vong do tịnh thân trước khi trở thành quan hoạn không phải
là ít. Vào đời vua Tuyên Đức thời nhà Minh, khi tiến hành tĩnh thân cho 1.565
nam giới để thành hoạn quan phục vụ trong triều đình, đã có gần 400 người chết
ngay sau đó do bị nhiễm trùng hoặc không cầm được máu. Cũng vào những đời vua
tiếp theo, rất nhiều trẻ em nam đã không được sống đến ngày trở thành những
viên quan trong nội đình như bố mẹ chúng mong muốn.
Theo sử sách ghi lại,
trung bình có ít nhất 20% số người được tịnh thân đã chết trước khi nhìn thấy lầu
son gác tía nơi cung vua, phủ chúa. Do đó, ở những đời hoàng đế sau này, người
ta đã bắt người làm tịnh thân cùng gia đình phải cam kết về mạng sống hoặc
không kiện cáo nếu cuộc phẫu thuật thất bại.
Không những thế, trước
khi tiến hành, người có ý định tịnh thân được đặt nằm nghiêng trên một cái giường
thấp, sau đó được hỏi lần cuối cùng có hối hận gì với quyết định trở thành hoạn
quan hay không. Nếu người đó trả lời không thì một người sẽ giữ chặt bụng người
đó, hai người khác banh hai chân ra giữ cho khỏi cục cựa.
Nếu gia đình và bản thân
người tịnh thân đều đồng ý thì cuộc tịnh thân mới được tiến hành. Băng vải được
quấn chặt ở bụng dưới và hai đùi và bệnh nhân được cho uống một thang thuốc mê
(ma phế thang), bộ phận sinh dục của y được chà xát bằng nước ngâm ớt.
Cả dương vật lẫn dịch
hoàn được cắt xoẹt bằng một nhát dao sát tận đáy, một nút bằng kim loại cắm
ngay vào lỗ sinh thực khí và vết thương được băng chặt bằng giấy bản, bên ngoài
quấn vải thật chặt. Người thái giám lập tức được những “đao tử tượng” dìu đi
quanh phòng trong hai, ba giờ liền trước khi được quyền nằm nghỉ. Người đó vừa
đau đớn, vừa khát nước nhưng không được ăn uống và tiểu tiện trong ba ngày. Sau
thời điểm ba ngày, vải băng được cởi ra.
Nếu bệnh nhân có thể đi
tiểu được ngay thì vụ giải phẫu thành công, người bị thiến đã qua được thời kỳ
nguy hiểm. Còn nếu như người thái giám không tiểu tiện được có nghĩa là đường
sinh thực khí đã bị thu hẹp hay bịt kín. Lúc này, người thái giám không may chỉ
còn có con đường là nằm chờ chết.
Để biến người con gái
bình thường thành nữ thái giám, một phương pháp vô cùng tàn bạo đã được tiến
hành: Người ta dùng gậy nhỏ đập vào bụng người phụ nữ để cho dạ con sa xuống,
không thể thụ thai, mang thai và sinh đẻ được.
Có hai thứ bắt buộc gia
đình người tịnh thân phải đem đến cho đao phủ. Thứ nhất là một cái đầu lợn hoặc
gà kèm theo rượu. Hai là ba mươi cân gạo, vài chục bắp ngô, vài cân hạt vừng
cùng vài tờ giấy to bản. Trong những vật phẩm này, gạo và ngô để những người tịnh
thân ăn đủ trong vòng một tháng khi nghỉ ngơi tại chỗ. Vừng được rang lên rồi
nghiền nhỏ, trở thành một thứ thuốc giữ ấm cho cơ thể theo bài thuốc cổ xưa.
Còn giấy to bản sẽ được
dùng để bịt kín cửa sổ, tránh gió lùa khi bệnh nhân vẫn phải nằm một chỗ.
Còn đối
với đao phủ, trước khi tiến hành tịnh thân cho bất kỳ ai, họ đều phải chuẩn bị
hai quả mật lợn tươi và một ít cần sa thối. Mật lợn có tác dụng chống sưng
viêm, được đao phủ bôi vào vết thương ngoài của người tịnh thân.
Còn cần sa thối được cho
bệnh nhân uống trước khi tiến hành tịnh thân, có tác dụng như một chất gây mê
khiến con người sẽ không cảm thấy đau đớn khi quá trình tịnh thân diễn ra. Khi
tiến hành tịnh thân xong, các đao phủ cũng sẽ cho bệnh nhân uống tiếp cần sa thối
để giảm thiểu sự bài tiết qua đường sinh dục. Chi phí cho việc tịnh thân đều phải
do gia đình của thái giám tương lai chi trả.
Tuy nhiên, thường thì những
gia đình nguyện tiến con trai vào cung đều là người nghèo. Vì thế nếu không có
tiền chi trả ngay cho đao phủ, khoản nợ này sẽ được ghi lại, để đến khi thái
giám tương lai vào cung sẽ trả dần. Thêm một điều đặc biệt nữa là tất cả dương
vật bị cắt của người tịnh thân đều được đao phủ giữ lại. Những bộ phận này được
gọi với cái tên “bảo vật”. Những “bảo vật” này được bảo quản cẩn thận rồi được
bán lại cho chủ nhân khi có yêu cầu, thường thì bảo vật sẽ trở về với chủ trước
khi các thái giám xuống mồ.
Theo các nhà nghiên cứu
Trung Quốc cho biết, sở dĩ các quan thái giám muốn lưu lại “bảo vật” của mình
do nguyên nhân sau: Một là, khi chết, những quan thái giám muốn được toàn thây
để khi đầu thai vào kiếp khác, nếu có trở thành đàn ông họ cũng sẽ vẫn được
nguyên vẹn. Hai là, theo truyền thống của người Trung Quốc, việc cắt đi một phần
thân thể do cha mẹ sinh ra sẽ mang tội bất hiếu. Bởi vậy, để tỏ lòng thành kính
và hiếu nghĩa với cha mẹ, khi chết, những vị thái giám cũng không muốn thân thể
mình thiếu bất cứ bộ phận nào.
Cứ như vậy, cùng với triều
dài của thời đại phong kiến Trung Quốc, thủ thuật tịnh thân để trở thành quan
thái giám trong triều đình Trung Hoa cũng đã có lịch sử hàng nghìn năm. Năm
1996, thái giám Tôn Diệu Đình, vị hoạn quan cuối cùng của triều đại phong kiến
Trung Hoa đã qua đời, đặt dấu chấm hết cho hiện tượng hoạn quan của Trung Quốc.
Vốn chỉ là quan trong nội
đình, không có quyền can dự chính sự, nhưng là người hầu cận thường ngày gần nhất
của hoàng đế, được hoàng đế tin dùng, nên có khả năng lộng quyền, nắm được đại
quyền chính trị, thậm chí có thể phế lập hoàng đế. Dưới các triều Đông Hán, Đường,
Minh, Thanh đều từng xảy ra những việc hoạn quan chuyên quyền làm bậy. Được xem
là cuộc sống có thể một bước lên ngôi cao quyền lực nhưng thực sự cuộc sống của
những người hoạn quan phải trải qua rất nhiều những đau khổ, bất hạnh.
Một hoạn quan đã miêu tả
lại những ngày tháng được cho là cực hình nhất của ông, trước khi trở thành người
giúp việc cho hoàng đế Quang Tự - vị vua cuối cùng của triều đại phong kiến
Trung Quốc: “Đi được là một điều may mắn, bởi vì có những người đã không thể đứng
lên để bước đi sau lần phẫu thuật tàn khốc đó. Họ đã chết do không thể tiểu tiện
được sau ba ngày hoặc do bị nhiễm trùng quá nặng.
Đó là những tháng ngày
đau đớn và bi thảm nhất trong cuộc đời tôi… Khi bước những bước chân đầu tiên của
cuộc đời quan hoạn, sự đau đớn như từng vết dao cứa vào thân thể và xuyên lên tận
óc. Mồ hôi cùng với nước mắt đã hòa vào nhau và ướt đẫm trên đôi chân…”.
Theo Thoại Mỹ
(Nguoiduatin)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét