Thứ Năm, 8 tháng 4, 2021

Apr 11, 2021 - Chúa nhật II Phục Sinh năm B

 

Apr  11,  2021 - Chúa  nhật  II  Phục  Sinh  năm  B

  "Phúc  thay  những  người  không  thấy  mà  tin!”

Kính  Lòng  Chúa  Thương  Xót.


  https://canhdongtruyengiao.net/loi-chua/thanh-vinh-dap-ca-chua-nhat-2-mua-phuc-sinh-nam-b.html


Các Bạn thân mến,

Lễ Phục Sinh hằng năm thường vào mùa Xuân của khí hậu thời tiết thiên nhiên; mùa phát sinh, tái sinh, bừng lên sức sống mới của các loại thực vật sau thời gian dài của mùa Đông rét lạnh, khô cứng, tàn tụy rơi rụng tưởng như đã chết. Nhưng cũng như Chúa Phục Sinh, chúng chỉ ngủ nghỉ, lấy lại sức mạnh để rồi tỉnh giậy, đâm chồi nẩy lộc xanh tươi mơm mởn rồi ra hoa, kết trái, phát sinh cành lá xum xuê, hương thơm thoang thoảng…tạo hương sắc đặc biệt cho mùa Xuân thiên nhiên trời đất, làm rung động lòng người! Nhưng chúng ta lại gần như vô tư thưởng thức, hưởng thụ như muôn ngàn cái vô tư khác mà chẳng tốn kém, mất mát gì! Có suy nghĩ thì nhiều khi cũng rất “logic”, cái logic vay mượn, logic đã thành công thức: hạt giống gieo xuống lòng đất lạnh thì lớn lên, sinh hoa kết trái, vậy thôi, có gì đâu!? Mà quên rằng ai cho nó mọc lên? Bởi con người nhỏ bé, không thể tự tạo ra được gì, càng không thể tạo ra một phép lạ dù cỏn con! Thế mà lại dám nghi ngờ Đấng duy nhất có thể làm được mọi điều. Và dám thách đố cả Đấng đã tự sống lại sau ba ngày yên nghỉ trong mồ! Ngày xưa, đó là một Toma tông đồ, người đã được chính Đức Giesu chọn. Nhưng sau đó, và cho đến ngày nay, còn không biết bao nhiêu người cố tình không tin vào sự Phục Sinh của Ngài, tệ hơn nữa họ còn chống phá, phỉ báng nhiều điều Ngài dạy bảo nữa.

 Tuy nhiên như Toma, người không có mặt lúc Chúa Phục Sinh hiện ra với các môn đệ lần đầu tiên, nhưng Ngài vẫn chiều những đòi hỏi qúa quắt của ông!

Năm 1931, qua nữ tu Maria Faustina Kowalska, Chúa còn truyền cho Giáo Hội trọng kính lòng thương xót của Ngài vào chúa nhật II Phục Sinh, chúa nhật mà cả thế giới phải hướng về Toma. Để những ai cứng lòng như ông, có cơ hội tuyên nhận Đức Giesu là Thiên Chúa của mình. Tình thương xót của Thiên Chúa thật không thể hiểu nổi phải không các Bạn?

Tin Mừng Thánh Gioan hôm nay tường thuật hai lần Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ. Cả hai lần đều vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần và cách nhau một tuần lễ. Lần đầu Toma vắng mặt, lần sau ông hiện diện. Khi hiện ra lần thứ hai, Đức Giêsu đã thỏa mãn đòi hỏi của Tôma đòi được “mắt thấy tay sờ”. Nhưng khi được Chúa Phục Sinh hiện ra, lập tức Tôma đã có đức tin và tuyên xưng đức tin ngay: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Sau đó, Đức Giêsu đã động viên các tín hữu sau này là những người chỉ có đức tin bởi nghe: “Phúc thay những người không thấy mà Tin!”.   

Gioan đã kể chi tiết câu chuyện đó như sau:

1.    Chúa Phục Sinh hiện ra với các môn đệ:

      a) Lần thứ nhất:

 - Tuy được bà Macdala báo tin và hai ông Phero, Gioan nói đã chứng kiến ngôi mộ trống, nhưng các môn đệ vẫn hoang mang, sợ hãi, tiếp tục ẩn náu trong một ngôi nhà được đóng cửa kín mít.

-  Ngày thứ nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. Đây là ngày lễ nghỉ, thay thế Thứ Bảy (Sabát) của Do Thái Giáo.

-  Đức Giêsu đến: Đức Kitô hiện đến trong lúc cửa nhà đóng kín. Cho thấy thân xác phục sinh của Ngài có đặc tính thiêng liêng siêu việt, có khả năng hiện diện khắp nơi.

-  “Bình an cho anh em!” Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa: Đức Kitô Phục Sinh đem lại sự bình an và niềm vui cho các môn đệ.

-  Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Đức Giêsu Phục Sinh là Đấng đã bị đóng đinh chân tay vào thập giá, bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn. Cho thấy có sợi dây liên kết giữa mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.

 -  Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này xuất phát từ Chúa Cha truyền cho Đức Giêsu, và giờ đến lượt Đức Giêsu Phục Sinh truyền lại cho các môn đệ và các tín hữu.

-  Người thổi hơi vào các ông và bảo:“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi thở chính là sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào Adam và ban sự sống cho ông, thì nay, Đức Giêsu Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các môn đệ. Rồi đến lượt các môn đệ lại ban sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu.

 - “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức Giêsu được Gioan Tẩy Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian. Khi làm phép lạ chữa lành một người bại liệt, Đức Giêsu đã cho thấy Ngài có quyền tha tội.

 Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài còn thiết lập Bí Tích Giải Tội, ban quyền tha tội cho các Tông đồ bằng việc thông ban Thánh Thần cho các ông. Từ đây các Giám Mục kế vị các Tông đồ sẽ tiếp tục thông ban quyền tha tội cho các linh mục là những cộng sự viên của các ngài.

-    Lần hiện ra này vắng mặt Toma. Khi gặp Toma, các môn đệ thuật lại thì ông không tin, còn thách đố:"Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi chẳng có tin…”

        b)  Lần thứ hai:

-    Biết Toma đòi hỏi quyết liệt, nhưng Đức Giesu hiểu rõ tấm lòng ông yêu kính Ngài, chỉ vì tính bi quan, nên sau cái chết của Ngài, Toma đau đớn đến độ không làm chủ được bản thân mình, không muốn gặp ai, nên đã mất cơ hội gặp Chúa Phục sinh lần đầu tiên.

-    Tính tình lại bộc trực, can đảm; Toma ưa nêu thắc mắc khi Đức Giêsu giảng để được Ngài dạy rõ hơn. Lần này ông đòi một đức tin khả giác giống như một nhà khoa học thực nghiệm.

-   Thật ra nhiều môn đệ khác cũng cứng tin như thế. Tin Mừng Nhất Lãm ghi: “Ngài khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Ngài sau khi Ngài chỗi dậy”

 -    Chờ khi Toma có mặt với các môn đệ, Đức Giesu lại hiện ra, lập lại lời Toma đòi hỏi và mời ông kiểm tra.

-  “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay thầy”. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy: Đức Giêsu đã thoả mãn những đòi hỏi của Tôma.

-   Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin: Đức Giêsu tuy khiển trách tội cứng lòng của Tôma, nhưng Ngài cũng thông cảm và chỉ kêu gọi ông từ bỏ sự cứng lòng để tin vào mầu nhiệm Phục sinh của Ngài.

-   Bấy giờ lòng Toma tràn tình yêu thương, tôn thờ, thốt lên “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Câu nói bộc lộ rõ tâm trí của Toma. Thật không hổ thẹn với con người có đầu óc thực nghiệm! Ông là môn đệ cuối cùng tin Đức Giêsu sống lại, nhưng lại là người đầu tiên tuyên xưng nội dung đức tin đầy đủ nhất về Đức Giêsu: Người vừa là Chúa Cứu Thế, vừa là Thiên Chúa.

-    Tuy nhiên có lẽ Đức Giesu chưa hài lòng nên nói tiếp: “Phúc thay những người không thấy mà tin”.

-    Từ nay trở đi, đức tin và mầu nhiệm Phục Sinh không dựa trên kinh nghiệm khả giác về các lần hiện ra nữa, nhưng dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Sau này các tông đồ còn làm chứng về Đấng Phục Sinh bằng việc sẵn sàng chịu chết vì đức tin và mầu nhiệm ấy.

-    Lời kêu than của Tôma không chỉ là một lời tuyên xưng đức tin, mà đó còn là lời sửng sốt bàng hoàng khi thấy các bàn tay của Đức Giêsu bị xé nát và đầy sứt sẹo!

-    Chỉ lúc bấy giờ Tôma mới thực sự nhận thức được sự đau đớn mà Đức Giêsu đã chịu trên thập giá. Và sự khám phá đó vượt quá mức chịu đựng của Tôma. Điều này nhắc chúng ta nhìn lại chính con người của mình. Chúng ta phải tin Đức Giêsu một cách cá biệt, phải tìm ra lý do của riêng mình để giúp chúng ta quỳ xuống, tuyên xưng Đức Giêsu như Toma.

-    Điều ông nói còn chứng tỏ đức tin của ông đã cao đến độ tin mà không cần kiểm tra.

-    Nhờ Toma, chúng ta được những bài học qúi gía: chúng ta không thể đặt ngón tay vào lỗ đinh nơi bàn tay của Đức Giêsu, không thể giải phẫu bàn tay con người, để qua cảm nghiệm, biết được sự đau khổ vô cùng mà Đức Giêsu đã phải chịu.

-   Nhưng chúng ta có thể làm như Toma đã làm. Chúng ta có thể tin vào Phúc Âm.

Chúng ta có thể đến với Đức Giêsu qua đức tin.

-   Từ những cảm nghiệm của riêng mình, chúng ta có thể khám phá rằng Đức Giêsu đã sống lại, ở giữa chúng ta và sẵn sàng giúp đỡ chúng ta, cũng như Ngài đã giúp đỡ Toma cùng bao nhiêu người cứng cỏi khác.

-   Đấy là lời mời gọi mà Tin Mừng hôm nay đưa ra. Lời mời gọi mà chính Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta khi Ngài nói với Tôma:"Có phải anh tin là vì anh thấy Thầy? Phúc cho những ai không thấy mà tin!"

-   Nên mỗi người phải đạt đến mức độ trực tiếp tin vào Đức Giêsu. Chúng ta không thể tin chỉ vì bạn hữu chúng ta tin. Có thể đức tin của họ giúp đỡ chúng ta, nhưng điều đó chưa đủ. Chúng ta phải đạt đến mức độ trực tiếp tin vào Đức Giêsu, giống như Tôma đã làm trong Tin Mừng hôm nay.

2.    Con người Toma:

          a) Lỗi lầm:

-    Là người bi quan, nên Toma dễ thất vọng, dễ đau buồn, thích sự cô đơn hơn là họp mặt bạn bè.

-    Ông đã mất cơ hội gặp Chúa Phục Sinh, lãnh bình an, và Thánh Thần lần thứ nhất.

-    Đấy là lỗi lầm lớn nhất của Toma và cũng là kinh nghiệm cho chúng ta, nếu không hợp thông với nhau, chúng ta sẽ mất nhiều dịp may lành.

-    Bởi nhiều điều tốt đẹp chỉ có khi chúng ta hiệp thông với nhau trong Giáo Hội, mà không xẩy ra khi chúng ta ở riêng rẽ cô đơn.

-    Chính những lúc buồn đau, chúng ta nên tìm đến với nhau, sự thông hiệp chia sẻ có cơ may được gặp Chúa và lãnh nhận ơn phúc.

-    Tuy nhiên thắng cá tính mình không dễ dàng, dù biết đó là điều tốt đẹp cần làm, nhưng cố gắng rèn luyện tính lạc quan, thói quen phó thác, chạy đến Chúa mỗi khi thất vọng lo buồn, dần dần sẽ dễ dàng hơn.

        b)  Những đức tính:

 -   Toma trung thực, thẳng thắn, can đảm, dứt khoát, bất khả khoan nhựơng, không nói ngược với lòng trí mình.

-    Không dễ dàng chấp nhận, cũng không phải là người thiếu suy nghĩ.

-    Ngờ vực, hoài nghi của ông có cơ sở khoa học, nghĩa là muốn biết rõ, biết chắc sự việc.

-    Chỉ tin khi ông đã hiểu kỹ càng, không qua loa chiếu lệ, không lưng chừng, không môi miệng, khách sáo.

-    Những đức tính chín chắn, cẩn thận của Toma rất cần thiết cho vấn đề giao tế xã hội.

-    Có thể nói Toma là người chậm tin, chậm thuần phục, nhưng tâm trí mạnh mẽ, tin tưởng vững chắc, quyết tâm lớn, kiên trì; đã tin, đã ý thức, thuần phục thì thực hiện đến cùng.

 3.   "Phúc thay những người không thấy mà tin!”:

-   Tin Mừng hôm nay cho thấy có hai mức độ tin:

            .  Mức độ thấp: tin do thấy, nghĩa là dựa vào bằng chứng cụ thể.

            .  Mức độ cao: tin mà không thấy, là không cần bằng chứng nào.

-    Đức Giesu đánh gía mức độ sau cao hơn, và kêu gọi chúng ta hãy cố vươn lên tớ mức độ ấy.

-    Bởi đức tin không thuộc phạm vi khoa học hay lý luận, nên không dựa vào bằng chứng, vì có bằng chứng rồi thì là điều hiển nhiên, cần gì tin nữa.

-    Tuy vậy đức tin không mù quáng, vì có lý do: thường thì chúng ta tin theo lời ai đó là do tình cảm, tư cách, và uy tín của người ấy.

-    Điều này làm nên gía trị của sự tin vào lời chứng, nên Đức Giesu nói:"Phúc thay những người không thấy mà tin", là vậy.

-    Thí dụ Toma chưa tin các môn đệ bạn thuật về Đức Giesu sống lại, nhưng khi nghe lời Ngài thì ông tin ngay, sau đó ông còn làm nhân chứng cho nhiều người khác tin theo.

-    Và khi yêu kính ai thì dễ tin vào người ấy, bởi yêu nên hạnh phúc, như thế có sự liên hợp giữa Tin Yêu - Hạnh phúc, mà người ta thường nói gọn là Tin - Yêu.

-    Trong tương quan với Chúa cũng vậy, tin Chúa nên chúng ta yêu Ngài và yêu nên chúng ta được hạnh phúc.

-    Lý do để tin còn là những dấu chỉ, dấu chỉ Chúa cho Toma là những thương tích của Ngài.

-    Chỉ cần thấy dấu chỉ là Toma tin ngay, không cần đụng chạm, sờ mó vào bằng chứng nữa.

-    Ngày nay không thấy Chúa, cũng chẳng thấy thương tích của Ngài, nhưng Chúa ban cho chúng ta những dấu chỉ khác, đó là những phép Bí tích, các biến cố, gương sống của các tín hữu công chính, và ngay chính mình, chúng ta cũng có thể là dấu chỉ nào đó cho người khác nhận biết Chúa.

-    Do giới hạn về không gian, thời gian, địa lý, lịch sử, chuyên môn, khả năng…khiến con người hiểu biết mọi sự mọi điều phần lớn là do kinh nghiệm, lý luận và tin tưởng.

-    Bởi thế giới hữu hình mà chúng ta quan sát được chỉ là một phần của thế giới rộng lớn bao gồm nhiều điều vô hình.

-    Phương cách để chúng ta có được những tri thức thông thường còn chân thật như thế, thì cách thức để chúng ta có được những tri thức tôn giáo càng chân thật hơn nhiều.

-    Nên phần lớn các tri thức tôn giáo mà chúng ta có là do chúng ta tin vào Kinh Thánh, tức là tri thức tôn giáo do niềm tin mà có, và người ta đã mặc nhiên công nhận.

-    Tuy nhiên về mặt nào đấy, cũng có thể kết hợp niềm tin với suy luận.

-    Thí dụ: biết Đức Giesu đã sống lại thật nhờ những gì Kinh Thánh nói, chúng ta cũng có thể suy luận thêm:

         .  Khi Đức Giesu chết, các môn đệ bị khủng khoảng tinh thần đến tột độ, chỉ còn như một đám người yếu hèn, nhát sợ, thất bại, lẩn trốn…

         .  Thế rồi Chúa Phục Sinh hiện ra, đã làm họ thay đổi một cách lạ lùng, lòng họ bùng lên niềm vui mừng hạnh phúc tràn đầy không thể cầm lòng được, vội chạy đi loan báo cho mọi người là họ đã gặp Đức Giesu sống lại, và Ngài hiện đang sống. Họ tin chắc chắn đến độ sẵn sàng chịu bách hại đủ điều, đủ kiểu, chấp nhận mất tính mạng chứ không chối bỏ niềm tin.

-    Qua những cảm nghiệm của chính họ về quyền năng của Đức Giêsu đang hoạt động trong đời sống của họ mà họ đã phải tin.

-   Trước Phục Sinh, họ vỡ mộng, tiêu tan hy vọng. Sau Phục Sinh họ biến đổi một cách lạ lùng. Ngay cả họ được sức mạnh để làm phép lạ. "Không một giải thích nào đủ lý lẽ để giải thích về sự biến đổi đời sống của họ ngoại trừ chính họ: họ đã thấy Đức Giêsu... còn sống."

-    Không chỉ đời sống họ biến đổi, họ còn làm thay đổi toàn lịch sử nhân loại, mà chỉ có thể giải thích vì họ dã thấy Đức Giesu hiện đang sống.

-    Lời chứng của họ càng ngày càng ảnh hưởng tới mọi người, càng ngày càng đi xa, đến tận cùng mọi ngõ ngách của địa cầu.

-    Cảm nhận được một năng lực mới lạ diệu kỳ khiến họ còn có thể làm nhiều phép lạ.

-    Thật vậy, lý trí thuần lý đã xác quyết rằng một biến cố nào đó đã xẩy ra làm biến đổi các môn đệ Đức Giesu, tức là lý trí đã xác nhận sự Phục Sinh của Đức Giesu thật sự đã xẩy ra.

-    Như vậy chúng ta có thể tin tưởng vào chứng cứ của Thánh Kinh, chúng ta cũng có thể dùng lý trí, lý luận để xác quyết thêm điều Kinh Thánh đã truyền dạy

-    Vì thế trải qua hơn hai ngàn năm, niềm tin Phục Sinh vẫn là nền tảng để Kito giáo sống và phát triển mãi mãi cho đến ngày tận cùng của thế giới như lời Chúa nói.

-    Mặt khác, “tin” là chấp nhận bấp bênh, chấp nhận có thể sai trái, lừa gạt …nhưng không thể sống mà không tin, và càng không thể nói "có thấy mới tin", bởi ngay chung quanh chúng ta có biết bao điều không thể thấy được mà chúng ta vẫn tin, và dù không giải thích được, nó vẫn là một hiện thực. Như lực hút của nam châm, lòng dạ con người, tình cha mẹ con cái, nghĩa vợ chồng…

-    Riêng chúng ta, mặc dù đã được rửa tội theo Chúa từ ngày sinh ra, nhưng vẫn còn biết bao yếu đuối, thiếu tin, hoài nghi, ngã lòng…

-    Chúng ta cần bồi dưỡng thêm bằng nhiều cách, bởi Lời Chúa, ơn Chúa Thánh Thần, anh chị em, gương thánh nhân... Đặc biệt liên tục trông cậy, cầu xin lòng Thương Xót Chúa.

 

Lạy Chúa, khủng hoảng lớn nhất của thế giới ngày nay là niềm tin của con người, bị giảm đến gần như mất hẳn ở mọi lãnh vực, từ tôn giáo, giáo dục, xã hội, chính quyền, đến gia đình, bạn bè, láng giềng ...

Xin cho chúng con, những tín hữu mà Ngài đã dựng nên và quan phòng, luôn sáng suốt giữ vững niềm tin vào:

-     Thế giới do Ngài tạo nên,

-     Vì xót thương nhân loại, Chúa đã Phục Sinh để cứu chuộc mọi người,

-     Cuộc đời mà Ngài gởi chúng con đến,

-     Vẻ đẹp tốt lành của tạo vật,

-     Sự sống viên mãn hạnh phúc Ngài hứa ban…

"Cậy nhờ cuộc tử nạn đau thương và sự sống lại vinh hiển của Đức Giesu, xin thương xót chúng con và toàn thế giới." Amen

Thân mến,

duyenky

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét