Thiên đàng và Hoả ngục
Fri, 26/03/2021 - Jos. Tú Nạc, NMS
Vào thế kỷ XIV, Dante
Alighieri, văn gia và triết gia người Ý, đã viết bài thơ nổi tiếng, Divine
Comedy (Hài kịch tuyệt diệu,) trong đó ông đã mô tả ảo ảnh Thiên Chúa giáo về
Inferno, Purgatorio và Paradiso - Hoả ngục, Luyện ngục và Thiên đàng.
Nhưng học thuyết Kitô
giáo về sự sống đời sau đã không tán thành với Dante. Điều này đã đẩy bài thơ
ngược dòng thời gian vào khoảng hơn 2.000 năm cùng những căn nguyên của nó
trong tư duy người Do Thái cổ đại.
Cựu Ước nói rằng khi người
ta chết sẽ rơi xuống một nơi trong lòng đất của sự chết, và nơi đó được gọi là
Sheol (thế giới dưới lòng đất). Phần của Sheol là nơi nghiêm trang dành cho những
người thành lập nghỉ ngơi, thư giãn; phần nữa, dĩ nhiên được đặt ở bên cạnh
dành cho những ai không giữ lời Giao ước của Chúa. Bóng tối này được liên kết với
Hoả ngục hoặc Gehenna. Gehenna ám chỉ một thung lũng, vào những thế kỷ trước
Thiên Chúa giáng sinh, đồ phế thải, xác súc vật, và thậm chí xác của những tội
nhân bị hành hình ném xuống đó. Những ngọn lửa bốc cháy liên tục, tất nhiên
không bao giờ tắt, nơi thung lũng này để thiêu huỷ đồ phế thải, khử mùi xác súc
vật và người bị phân huỷ, thối rữa. Nó cũng được liên kết với sự tôn kính những
vị thánh lầm lỗi và được coi là nơi kinh tởm.
Ý niệm Kitô giáo về Hoả
ngục được xây dựng trên khái niệm của Gehenna, và đã trở thành một nơi đau đớn,
trừng phạt và bị loại khỏi Vương quốc của Thiên Chúa. Từ thế kỷ I và thế kỷ II,
có những tác giả của Tin Mừng mô tả Gehenna, hoặc nơi mà chúng ta đã đều gọi là
Hoả ngục, như một hố sâu dưới lòng đất, lò lửa, và là nơi hành hạ bất tận vì bị
đoạ đày.
Vài trăm năm sau,
Augustine đã gợi ý rằng “vực sâu dưới lòng đất” này là nơi trú ngụ của những
loài động vật ăn thịt. Thomas Aquinas đã mặc nhiên thừa nhận rằng sự tra tấn,
hành hạ của Hoả ngục là thể xác cũng như linh hồn, và ngọn lửa thật ấy xét xử một
phần trong số họ. Và nhiều văn sĩ và hoạ sĩ suốt thời kỳ Trung Cổ đã mô tả sự
đau khổ, giày vò của Hoả ngục với những chi tiết cụ thể đến nỗi người ta nghĩ
những người này đã từng sống ở đó. “Hoả ngục” của Dante nổi tiếng với những chi
tiết rùng rợn đến dựng tóc gáy khi phải sa xuống những tầng sâu của Hoả ngục.
Suốt nhiều thế kỷ, những
mô phỏng không ngớt đã tạo ra sự băn khoăn không biết nơi “ở đó” như thế nào.
Trong lúc Kinh Thánh nói về Hoả ngục như sự sống trong lòng Trái đất. Các nhà
văn Kitô giáo đã xếp đặt nó một cách khác nhau trên những hòn đảo ở Địa Trung Hải,
trên mặt trời và bên ngoài vũ trụ. Tuy nhiên, dù bất kỳ ở nơi nào, nó thường được
cho rằng Hoả ngục là nơi trú ngụ của Satan và Lucifer.
Ma quỷ thường được nói đến
nhiều trong cả Tân Ước và Cựu Ước, nhưng nó chỉ ở trong cuốn cuối cùng của Kinh
Thánh, sách Khải huyền, mà một bài trình thuật đầy đủ đã công bố việc Lucifer
quay lại chống Thiên Chúa và bị Tổng lãnh Thiên thần Michael ném ra khỏi Nước
Trời. Trong suy tưởng của người Kitô giáo, Thiên thần bị giam giữ này đã trở
thành người canh giữ Hoả ngục.
Trong khi Tân Ước đặt Hoả
ngục như một nơi đày đoạ bất tận. Vào đầu thế kỷ III, một vài nhà tư tưởng Kitô
giáo đã đề xuất rằng sự xua đuổi xuống Hoả ngục có thể không vĩnh viễn. Họ tin
rằng lửa Hoả ngục sẽ tẩy sạch và có thể góp phần cho việc giáo dục sự sống đời
sau và tẩy sạch tội lỗi linh hồn. Mặc dù ý niệm này đã bị Giáo Hội lên án tại Hội
đồng Thế giới V vào năm 553, nhưng ý niệm về lửa thanh tẩy trong cuộc sống đời
sau vẫn tiếp tục.
Theo truyền thống Kitô
giáo, những lời kinh cầu và những buổi lễ kỷ niệm Cộng đoàn cho những người qua
đời là để giúp đỡ họ trong cuộc sống đời sau, không mang khái niệm về Hoả ngục
đời đời, và Ngày lễ Cầu cho các Linh hồn, do Thánh Viện phụ Odilo lập ra vào đầu
thế kỷ XI, được tập trung sự chú ý nhiều hơn về khả năng đáng tin cậy, qua lời
cầu nguyện và thi ân cho người nghèo, để giúp đỡ những người quá cố chưa chuộc
tội lỗi trọn vẹn vì vượt quá giới hạn của họ trước lúc sinh thì.
200 năm sau, thần học sám
hối khổ hạnh ra đời, và việc gột rửa tội lỗi được mở rộng cho những người đã chết,
và Purgatory - Luyện ngục (động từ Latinh “to purge”: thanh tẩy, gột sạch) được
thừa nhận là một phần của học thuyết Kitô giáo một cách đúng nghi thức. Được đặt
giữa hai vô cực Thiên đàng và Hoả ngục. Hội đồng Thế giới Lyon đầu tiên đã xác
nhận sự thanh tẩy vào năm 1254 như một nơi “lửa quá cảnh” (transitory fire),
nơi mà những tội nhẹ có thể được rửa sạch. Sự thanh tẩy vẫn đưa ra hy vọng nước
Thiên Đàng cho những ai đã chết trong tội lỗi.
Cái nhìn về Thiên Đàng của
người Do Thái đã tiến triển trên vài thế kỷ trước lúc Chúa Kitô ra đời. Vì người
Do Thái bị lệ thuộc những cuộc xâm lược cùng những luật lệ do những quốc gia
khác (chẳng hạn như những người Babylon vào thế kỷ VI trước Thiên Chúa giáng
sinh) áp đặt, tin rằng đạo đức công bằng sẽ được đền bù trên Trái đất cho đến
lúc suy tàn. Nó được thay cho phần thưởng sau khi chết. Thế giới dưới lòng đất
(Sheol) được coi là một thế giới rất tối tăm u sầu, một nơi dành cho những linh
hồn biết hối cải ăn năn, đặt họ riêng trong một thế giới khác - thế giới siêu
nhiên - chốn cực lạc được bắt đầu. Vào thế kỷ II trước Thiên Chúa giáng sinh, một
thành phố Thiên đàng Jerusalem không phải là nơi duy nhất của Thiên Chúa và các
thiên thần, mà còn là nơi trú ngụ vĩnh cửu cho những người ngay lành.
Người Kitô giáo ngày xưa
tiếp tục duy trì sự tin tưởng này và nghĩ Thiên đàng như chốn cực lạc bên trên
thế giới. Nó chiếm lĩnh điểm cao nhất trong một vũ trụ thuộc phạm vi bầu trời
xoay quanh trái đất. Nhìn chung, bảy Thiên đàng đã được vẽ qua trí tưởng tượng,
tương ứng với mặt trời, mặt trăng và 5 hành tinh có thể trông thấy được. Trong
thư gửi dân Côrintô, Thánh Phaolô đã tường thuật rằng ngài đã được đưa đến
Thiên đàng thứ ba và cũng đến miền cực lạc - có lẽ Thiên đàng thứ bảy. Khái niệm
về một Nước Trời thường xuất hiện trong quan điểm lỗi thời cho rằng bầu trời đã
tồn tại như một vật thể phía trên những đám mây từ nơi mà Thiên Chúa và các
thiên thần trông chừng loài người.
Khái niệm Kitô giáo về
Thiên đàng đã được Thánh Augustine phát triển đầy đủ vào thế kỷ V. Trong tác phẩm
của ông, The City of God, nhà thần học lỗi lạc này đã thuyết phục rằng Thiên
đàng là một nơi quy củ, sự cai trị và quyền công dân, nơi cứu vớt những Kitô hữu
gặp Thiên Chúa “đối diện” và là nơi tái hợp những người được yêu thương.
Vào thế kỷ XIII, thuyết
hàn lâm đã thách thức làm thế nào để Thiên đàng được coi như một địa điểm - vật
thể. Thay vào đó, nó được lý giải rằng Thiên đàng là một tinh hoa: một thực chất
thứ năm vượt lên trên 4 yếu tố đất, khí, lửa, và nước. Vì là một tinh hoa nên
Thiên Đàng ở bên ngoài những quy luật tự nhiên chi phối vũ trụ. Viết vào thời
điểm ấy, Thánh Thomas Aquinas xác nhận rằng khi chúng ta nói về Cha chúng ta ở
trên Trời, như được thực hiện trong lời cầu nguyện của Chúa, điều đó có nghĩa
là mô tả Thiên Chúa như một sự sống siêu nhiên, không phải là một con người cư
trú ở một nơi gọi là Thiên đàng. Thiên đàng đúng hơn là một trạng thái, không
phải là một địa điểm, nơi chốn.
Nhưng ngày này, Giáo Hội
không lên tiếng trước những vấn đề như vậy về vị trí và bản chất của Thiên
đàng. Sách Giáo lý vấn đáp của Hội thánh Công giáo diễn giải một cách đơn giản
rằng “sự hoàn thành những nỗi khát khao con người sâu sắc nhất, trạng thái tột
đỉnh, hạnh phúc cuối cùng.” Cùng một cách thức, trong lúc khẳng định sự hiện hữu
của Hoả ngục, Giáo Hội đã không nói đến địa điểm của nó. Tại một cuộc tiếp kiến
đông đảo năm 1999, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phát biểu: “Hoả ngục, đúng
hơn là một nơi biểu lộ trạng thái của những ai tự ý xác định tách mình rời xa
Thiên Chúa.”
Mặc dù có một lịch sử lâu
dài trong tư duy Kitô giáo với cố gắng biểu thị đặc trưng của Thiên đàng, Luyện
ngục và Hỏa ngục, nhưng có lẽ, giống như bản tính Đức Chúa Trời, không bao giờ
có thể diễn tả được.
Jos. Tú Nạc, Nguyễn Minh
Sơn (Biên dịch từ The Catholic Register)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét