MÁU và NƯỚC từ THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU
(Wed,
31/05/2017 - Trầm Thiên Thu)
Trong Bữa Tiệc Ly, tông đồ
Gioan – người môn đệ “được Chúa Giêsu yêu quý” – đã được tựa đầu vào Thánh Tâm
Chúa Giêsu (Ga 13:23). Chỉ vài giờ sau đó, ở bên chân Thập Giá, Gioan lại là
người chứng kiến Thánh Tâm Chúa Giêsu bị đâm thâu. Thánh Gioan xác định rõ
ràng: “Một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người, tức thì máu cùng nước
chảy ra” (Ga 19:34). Các giáo phụ thời kỳ đầu đã hiểu Máu và Nước đó theo nghĩa
bí tích, là Máu trong Bí tích Thánh Thể và Nước trong Bí tích Thánh Tẩy. Các Bí
Tích và Giáo Hội phát sinh từ vết thương nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thánh
Augustinô liên tưởng rằng Bà Eva được tạo nên từ chiếc xương sường của Ông Adam
khi ông chìm vào “giấc ngủ mê” (St 2:21). Giáo Hội cũng vậy, Giáo Hội được phát
sinh từ cạnh nương long của Đức Kitô và là Hiền Thê của Ngài. Nhờ Nước trong Bí
tích Rửa Tội và Máu trong Bí tích Thánh Thể mà Giáo Hội được sinh ra và được
duy trì. Giáo Hội tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, bởi vì “Ngài cho phép tội lỗi
của chúng ta đâm thâu Thánh Tâm Ngài”, là biểu tượng của Thánh Tình dành cho
nhân loại (GLCG số 2669).
Thông điệp “Haurietis
Aquas” (Hân Hoan Múc Nước) năm 1956, nói về lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa
Giêsu, mở đầu bằng câu trích dẫn sách ngôn sứ Isaia về nước ban sự sống của Đấng
Mêsia chịu đau khổ. Ngôn sứ Isaiah nói: “Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn
ơn cứu độ” (Is 12:3) và “đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn
đây!” (Is 55:1). Các ngôn sứ khác – như Giôen, Êdêkien, và Dacaria – cũng nói về
loại nước này của Đấng Cứu Độ. Chính Chúa Giêsu trích dẫn lời các tiên tri nói
rằng từ nơi Ngài “tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7:38). Nước trường
sinh này là gì? Các giáo phụ thời Giáo Hội sơ khai đã nhận biết nước này chảy
ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu là ân sủng từ các bí tích. Đó là biểu tượng về việc
trao ban Chúa Thánh Thần. Nước hằng sống là nước rửa tội, qua đó Chúa Thánh Thần
thanh tẩy tội lỗi của chúng ta và đến cư ngụ trong chúng ta. Chúa Giêsu nói với
ông Nicôđêmô rằng chúng ta phải được tái sinh bởi “nước và Thánh Thần”, cũng
như Ngài đã nói với phụ nữ Samari tại giếng nước ngày xưa: “Nước tôi cho sẽ trở
thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4:14).
Không phải là ngẫu nhiên
mà Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu xuất hiện trong lịch Phụng Vụ sau Lễ Ngũ Tuần, tưởng
nhớ tác phẩm của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần nhiệm xuất (proceed) từ chiều
sâu thẳm của Thánh Tâm Chúa Giêsu. Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu cũng là ngày thứ sáu
đầu tiên trong Tuần Bát Nhật Lễ Mình Máu Chúa (Corpus Christi), cử hành sự hiện
diện thật của Mình Máu Thánh Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Đó là điều phù
hợp, bởi vì Thánh Tâm Chúa Giêsu là thành phần trong Thánh Thể của Ngài. Theo
nghĩa đó, khi chúng ta đón nhận Bí tích Thánh Thể, chúng ta cũng đón nhận Thánh
Tâm Chúa Giêsu (Tông thư Haurietis Aquas, số 122). Máu tuôn trào từ Thánh Tâm
Chúa Giêsu bị đâm thâu trên đồi Can-vê là “Máu của giao ước mới” mà Chúa Giêsu
đã mở ra tại Bữa Tiệc Ly, chính bữa tiệc mà chúng ta tham dự mỗi thánh lễ.
Hồi thế kỷ 17, đức tin lộn
xộn, nhất là ở Pháp, khi phải xử lý cuộc Cải Cách Tin Lành và tà thuyết
Gian-xen (*). Thuyết này từ chối ý muốn tự do của con người, cho rằng chỉ những
người được Thiên Chúa tiền định mới nhận được ơn thánh hóa. Thuyết này ngụ ý
tính khắt khe luân lý, kết quả là nhiều người đã từ chối rước lễ bởi vì họ cảm
thấy tội lỗi. Đó là trái ngược với nền tảng của thế giới quan hạn hẹp này, giới
hạn ân sủng bí tích với một số người, và rồi Chúa Giêsu đã hiện ra với Thánh
Margaret Maria Alacoque, Ngài nói: “Hãy nhìn Thánh Tâm Ta đây, Thánh Tâm Ta yêu
thương quá đỗi, đến nỗi không còn lại gì, thậm chí còn kiệt quệ để chứng minh
tình yêu thương của Ta dành cho họ”. Chúa Giêsu cho thấy rằng Ngài mở hết lòng
mình, không chỉ cho một số người, mà cho hết mọi người, và Ngài muốn mọi người
đón nhận Thánh Thể Ngài thường xuyên. Ngài muốn rằng ngày lễ kính Thánh Tâm
Ngài được thiết lập, và mọi người sẽ rước lễ vào các thứ sáu đầu tháng, đồng thời
thường xuyên làm Giờ Thánh. Thật vậy, Chúa Giêsu đã canh tân đời sống Giáo Hội,
làm sống động trái tim của các tín hữu với việc sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu cũng đã bày tỏ
nhiều lời hứa qua Thánh nữ Margaret Mary dành cho những người tôn sùng Thánh
Tâm Ngài. Trong số đó có lời hứa ban an bình cho các gia đình, an uiủ họ khi gặp
khó khăn, ban cho họ những ơn cần thiết, giúp họ sốt sáng hơn và hoàn thiện hơn
qua đức tin, đồng thời ghi khắc tên họ vào Thánh Tâm Ngài mãi mãi. Trong lá thư
tháng 5-1688, Thánh Margaret Mary đã viết về “Lời Hứa Quan Trọng” mà Chúa Giêsu
đã nói với bà. Chúa Giêsu nói: “Ta hứa với con rằng tình yêu mãnh liệt của Ta sẽ
ban cho những người rước lễ vào các ngày thứ Sáu đầu tháng, trong chín tháng
liên tục, được ơn hối cải trong giờ lâm tử”. Lời hứa tuyệt vời biết bao, nhưng
chúng ta nên nhớ rằng đây không là “sự bảo đảm tự động” (automatic guarantee)
được vào Nước Trời (nghĩa là đừng ảo tưởng rằng cứ “khoán trắng” đủ chín tháng
là xong, rồi muốn sống sao cũng được lên Thiên Đàng – chú thích của người dịch).
Chúng ta nên phân biệt với dạng mê tín (superstition) liên quan điều này. Lm
James Kubicki, Dòng Tên, giám đốc chương trình Tông đồ Cầu nguyện (Apostleship
of Prayer), cho biết rằng điều này “không có phép thần thông nhưng có hệ quả tự
nhiên trong đời sống kết hiệp với Thánh Tâm Chúa Giêsu”. Chúng ta không được mời
gọi mê tín dị đoan, mà được mời gọi sùng kính.
Lòng sùng kính Thánh Tâm
được mô tả đầy đủ nhất qua lòng tôn kính của chúng ta đối với Giáo Hội. Máu và
Nước trong Bí tích Thánh Thể và Bí tích Thánh Tẩy làm cho chúng ta nên mới. Thần
Khí Ngài cư ngụ trong chúng ta để trao ban sự sống đời đời. Đây là cách hoàn tất
lời tiên tri của ngôn sứ Êdêkien. Kinh Thánh cho biết: “Ta sẽ ban cho chúng một
trái tim và đặt thần khí mới vào lòng chúng. Ta sẽ lấy khỏi mình chúng trái tim
chai đá và ban cho chúng một trái tim bằng thịt, để chúng đi theo các thánh chỉ
của Ta và tuân giữ cùng thi hành các quyết định của Ta. Lúc ấy, chúng sẽ là dân
của Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng” (Ed 11:19-20). Trong chúng ta cũng vậy.
Trái tim của chúng ta được thích nghi và được tái tạo khi sùng kính Thánh Tâm
Chúa Giêsu.
Khi bị treo trên Thập
Giá, Chúa Giêsu đã kêu lên: “Tôi khát” (Ga 19:28). Nhìn qua lăng kính Kitô
giáo, sự khát của Chúa Giêsu là khao khát cứu các linh hồn. Chúng ta có thể
theo cách thực tế để an ủi Thánh Tâm Chúa Giêsu và thỏa mãn cơn khát của Ngài bằng
cách cảnh báo đền tội và tôn sùng Thánh Tâm Ngài (Tông thư Miserentissimus
Redemptor – Đấng Cứu Chuộc Rất Yêu Thương, số 13). Bí tích Thánh Tẩy và Bí tích
Thánh Thể biến đổi chúng ta, những người dự phần vào Nhiệm Thể Đức Kitô. Chúng
ta được tẩy sạch nhờ nước ban sự sống của Chúa Giêsu, và chúng ta được biến đổi
nhờ Mình Máu Thánh Chúa. Về điều này, Thánh Gioan tông đồ là ví dụ điển hình,
chàng trai trẻ này đã tựa đầu vào ngực Chúa Giêsu, được nghe nhịp đập của Thánh
Tâm, và Chúa Giêsu cũng làm cho mọi thụ tạo nên mới như vậy.
BRIAN KRANICK
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ
từ CatholicExchange.com)
Kính Mừng Tháng Thánh Tâm
Chúa Giêsu, 1-6-2017
------------------------
(*) Jansenism: Thuyết của
thần học gia Công giáo Cornelis Jansen (1585–1638), khoảng 1656-1657, dựa trên
thuyết tiền định luân lý (moral determinism). Các nguyên tắc thần học của
Cornelis Jansen nhấn mạnh sự tiền định, phủ nhận ý chí tự do, cho rằng bản chất
con người hư hỏng, không thể tốt lành, còn Chúa Kitô chỉ chết cho những người
được chọn chứ không chết cho mọi người. Giáo hội Công giáo kết án thuyết này là
lạc giáo. Thuyết này bị những người cải cách trong giới giáo sĩ, tu sĩ và học
giả Công giáo Âu châu Tây phương phản đối, và bị kết án là tà thuyết. Bị ảnh hưởng
các tác phẩm của thánh Augustinô, nhất là sự tấn công của thánh Augustinô đối với
thuyết Pelagianism (phủ nhận tội tổ tông) và thuyết ý chí tự do, Jansen theo
thuyết của thánh Augustinô về sự tiền định và sự cần thiết của Ơn Chúa, một lập
trường bị Công giáo La Mã coi là gần với thuyết của Calvin, đã cấm lưu hành cuốn
The Augustinus của ông năm 1642. Sau khi Jansen chết năm 1638, những người theo
ông đã lập cơ sở tại tu viện ở Port-Royal, Pháp. Blaise Pascal, một đệ tử trung
thành của Jansen, đã bảo vệ các giáo huấn của họ trong Provincial Letters
(1656–1657). Năm 1709, vua Louis XIV ra lệnh bãi bỏ tu viện này. Những người
theo Jansen bắt đầu lập Giáo hội Jansen năm 1723 và tồn tại tới cuối thế kỷ 20.