Thứ Sáu, 5 tháng 5, 2017

SỰ SỐNG DỒI DÀO (Chúa Nhật IV Phục Sinh, năm A)

SỰ  SỐNG  DỒI  DÀO
( Chúa  Nhật  IV  Phục  Sinh,  năm  A)


Nhân lành Mục tử Giêsu
Kiếm tìm chiên lạc ốm o gầy mòn
Đưa về an ủi, chăm nom
Sớm chiều lo liệu mọi phần cho chiên

Có câu chuyện kể rằng…
Một hôm, cậu lễ sinh vừa cười vừa tròn mắt nhìn linh mục xứ và nói:
–   Ôi, cha có mùi gì lạ thế?
–   Mùi gì?
– Con không xác định được, nhưng hình như là mùi… heo!

Linh mục cười và xoa đầu cậu bé:
– À, tưởng gì. Cha mới tắm cho mấy con heo bên nhà hàng xóm, mùi heo là tất nhiên rồi!
– Sao cha lại làm việc ấy?
– Không có việc xấu, chỉ có người xấu. Ông ấy đã già, không thân nhân, nuôi heo để sinh sống. Mấy hôm nay ông ấy bị mệt, cha phải giúp ông ấy thôi.
– Dạ, con hiểu rồi.
Hôm sau, cậu lễ sinh cười:
– Ôi, hôm nay cha lại có mùi gì kỳ lắm. Mùi này tanh lắm!
– À, hồi nãy cha đi thăm mấy bệnh nhân nằm liệt, không ai giúp đỡ, cha phải giúp họ vệ sinh cá nhân.
– Dạ, con hiểu rồi.
Tuần sau, cậu lễ sinh ngạc nhiên nói:
– Mùi lúc này khác lạ lắm, cha ơi!
– Thế con thấy mùi gì?
– Mùi này không hôi, không tanh, không khó chịu, mà thơm tho lắm, dễ chịu lắm.
– Cái thằng này, mũi thính thế!
Cậu bé gãi đầu, ngập ngừng:
– Nhưng…
– Nhưng gì nào?
– Nhưng… con thích… ngửi mùi hôi… hơn mùi… thơm.
Linh mục tròn mắt:
– Sao vậy? Thơm không thích mà thích hôi à?
– Mùi hôi tanh là mùi thật. Mùi thơm là mùi giả. Cha hôi thì con còn muốn đến gần, cha thơm thì con không dám đến gần, vì cha sang trọng quá! Chúa Giêsu cần chiên đen hơn chiên trắng, luôn gần gũi người nghèo khổ chứ đâu có thân thích với người giàu có.
– Cha xin lỗi và cảm ơn con. Từ nay cha sẽ cố gắng giống Ngài hơn!
Câu chuyện ngắn gọn nhưng chứa đựng triết lý sống tích cực về nhân bản. Thiên Chúa là tình yêu, là vị Mục Tử luôn chạnh lòng thương, và vì giàu lòng thương xót, Ngài chấp nhận bỏ 99 con chiên trắng để đi tìm cho được 1 con chiên đen (Mt 18:12-14; Lc 15:4-7). Ngài không muốn ai phải sống èo uột, mà chỉ muốn mọi người được sống dồi dào, sống viên mãn, sống đúng nhân vị và nhân phẩm của con người, đồng thời cũng được hưởng nhân quyền và sự tự do đích thực – cả vềxã hội lẫn tôn giáo. Muốn được vậy thì chắc chắn chúng ta phải “đi qua” Đức Giêsu Kitô.
Thật vậy, chỉ có Đức Giêsu Kitô là Con Đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha (Ga 14:6) và là Nguồn Sống dồi dào (Ga 10:10) cho chúng ta. Đức Giêsu Kitô không chỉnuôi sống chúng ta bằng ân sủng mà đặc biệt là chính Mình Máu Ngài để chúng ta được sống dồi dào, vì Ngài là Thiên Chúa của người sống chứ không là Thiên Chúa của người chết (Mt 22:32; Mc 12:27; Lc 20:38).
Tuy nhiên, nếu muốn có sự sống dồi dào thì mỗi cành-nho-chúng-ta phải nối kết với Cây Nho Thật để được truyền nhựa-yêu-thương (Ga 15:1-17). Cây càng có nhiều nhựa thì càng có nhiều sức sống, con người cũng vậy, đặc biệt là sự sống tâm linh, sự sống từ Thiên Chúa.
Khi được tái sinh bởi Đức Giêsu Kitô, người ta biến đổi hoàn toàn để trở thành một con người mới – tội nhân trở thành thánh nhân. Hồi đó, sau khi Chúa Giêsu đã phục sinh, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với tất cảnhững người đang cư ngụ tại Giêrusalem, và lắng nghe những lời ông nói: “Toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 2:36). Nghe thế, họ đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phêrô cùng các Tông Đồ khác: “Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?”. Biết hỏi như vậy là dấu hiệu tốt lành biết bao, vì chứng tỏ tâm hồn đã thực sự biết sám hối lỗi lầm, biết khao khát điều tốt, và biếtước muốn hướng thiện!
Thấy họ chân thành hỏi như vậy, ông Phêrô đáp: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. Thật vậy, đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi” (Cv 2:38-39). Ông Phêrô còn dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ họ. Rồi ông nói: “Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này để được cứu độ” (Cv 2:40). Những ai đã đón nhận lời ông thì đều xin được lãnh nhận phép rửa, muốn được tái sinh để hy vọng được vào Nước Trời (Ga 3:5). Thật kỳ lạ, ngay hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo. Việc Chúa làm thật lạ lùng vô cùng!
Ngày nay, chúng ta có phương tiện định vị toàn cầu giúp người ta không lạc lối, nhưng chỉ có Chúa Giêsu mới chính là “định vị kế” chuẩn mực nhất. Người nào nhận biết được như vậy thì sẽ an vui tín thác vào Ngài, để Ngài quan phòng và tiền định, vì người đó xác định: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dựcủa Người” (Tv 23:1-3).
Chắc chắn người đó cũng luôn an tâm vững chí và hạnh phúc thân thưa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:4-6). Thật vậy, ai tuân giữlời dạy của Đức Kitô thì không bao giờ phải lạc đường và cũng không phải chết (Ga 8:51).
“Lòng nhân hậu và tình thương của Thiên Chúa” không hề xa lạ, bởi vì đó chính là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa mà ngày nay đang rất phổ biến khắp nơi trên thế giới, từ thành thị tới thôn quê, từ người già tới người trẻ. Không ai không là tội nhân, và vì thế mà không ai lại không cần đến Lòng Chúa Thương Xót. Hằng ngày, khi cầu nguyện bằng Kinh Mai Côi, chúng ta vẫn nhiều lần tha thiết cầu xin: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn”. Nhưng cũng rất có thể vì quen quá hóa nhàm nên chúng ta không thực sựchú ý hoặc không cảm nhận lời cầu da diết như vậy.
Đời sống tâm linh được lồng trong đời thường, vẫn có đủ thất tình (hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố,dục) theo bản tính phàm nhân. Do đó mà chúng ta luôn phải cố gắng không ngừng, sơ sảy một chút là té nhào ngay thôi. Đôi khi còn có những điều trái tai, gai mắt, và chúng ta phải “vượt qua chính mình”. Thánh Phêrô nói: “Nếu có tội mà anh em bị đánh đập và đành chịu thì nào có vẻ vang gì? Nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, đó là ơn Thiên Chúa ban” (1 Pr 2:20). Thật vậy ư? Chúng ta hãy nghe Thánh Phêrô giải thích: “Anh em được Thiên Chúa gọi đểsống như thế. Thật vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình” (1 Pr 2:21-23). Cái khó là “im lặng” và “phó thác” cho Chúa.
Chính Chúa Giêsu là Nguồn Sống nhưng Ngài đã chịu bị giết chết, không phải Ngài đáng bị như vậy, mà Ngài chịu thay cho chúng ta, Ngài chịu chết để chúng ta có cơhội sửa sai và có thể phục sinh vinh quang như Ngài: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành. Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em” (1 Pr 2:24-25). Chúa Giêsu chết vì tội lỗi của chúng ta, nghĩa là chúng ta cũng phải dám chết cho tội lỗi của chính mình – và tội lỗi của người khác, nhờ đó mà được sống lại và được sống dồi dào trong Đức Giêsu Kitô Phục Sinh.
Chúa Giêsu là Con Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống (Ga 14:6), đồng thời Ngài còn là Cửa (Ga 10:9), chính Cửa này dẫn vào Nguồn Sống Dồi Dào của Thiên Chúa:“Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽchạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ” (Ga 10:1-5). Nghe Đức Giêsu nói vậy, người ta không hiểu Ngài nói gì.
Tất nhiên không chỉ khó hiểu đối với những người thuộc nhóm Pha-ri-sêu hồi đó, mà còn khó hiểu đối với cả chúng ta ngày nay, thậm chí có khi chúng ta còn không muốn hiểu. Thật vậy, những lời Chúa Giêsu nói nghe không thấy có gì “gay gắt”, nhưng thực ra hiểu rồi thì mới cảm thấy “đụng chạm” và “nhức óc” lắm, vì Ngài muốn nhấn mạnh đến tính chất cần thiết của Mục Tử Nhân Lành. Mục tử đó phải thể hiện lòng thương xót và dám liều mạng vì đoàn chiên. Nói đến lòng trắc ẩn, và đặc biệt trong Tháng Hoa, chắc hẳn nhiều người còn nhớ gương yêu thương sáng chói của Thánh tử đạo Lm Maximilian Maria Kolbe (*).
Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành đích thực, Ngài yêu thương mọi người, và Ngài chỉ muốn mọi người “đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3:18), nhất là những người được lãnh nhận tác vụ linh mục, họ cũng PHẢI là những mục tử nhân hậu, PHẢI biết phục vụ chứ không hưởng thụ (Mt 20:28), thế nhưng vẫn thấy có những người thích dùng quyền và ra lệnh hơn là khiêm nhường phục vụ vì yêu thương. ĐGH Phanxicô đã từng cảnh báo các giám mục: “Mục tử có nguy cơ bị mê hoặc bởi viễn tượng nghề nghiệp, bởi cám dỗ về tiền bạc, và những thoả hiệp theo tinh thần thếgian”. Có lần ngài nhấn mạnh rằng giám mục là người được chọn để phục vụ một Giáo hội duy nhất, vì thế không được tìm kiếm một việc gì khác ngoài việc phục vụ Giáo hội, và ngài đã nói thẳng: “Nếu tìm kiếm một việc gì khác thì chính giám mục đó đang ngoại tình”. Gương “giám mục xa hoa” Franz Peter Tebartz van Elst (người Đức) còn đó, và rồi ông đã bị đình chỉ nhiệm vụ hồi tháng 10-2013. Chắc hẳn Mục Tử Giêsu buồn lắm!
Nhắc tới những điều “nhạy cảm” như vậy, có những người “nhột” (chính họ nhột hoặc nhột dùm), nhưng phải nhột như vậy mới có thể “thức giấc”. Chúng ta chỉtâng bốc nhau bằng những lời khen sáo rỗng để lấy lòng nhau thì có ai lợi gì không, hay lại chỉ dìu nhau vào con đường mê lầm? Dám nhìn thẳng vào sự thật mới là người yêu sự thật, và nhờ đó mới có thể thành nhân. Sợ sự thật hoặc tránh sự thật là đồng lõa với sự giả dối, đừng biện hộ vì thế này hoặc thế nọ, và cũng đừng ảo tưởng “chiếc bánh vẽ” nào đó!
Cũng vậy, khi đọc Lời Chúa thì người ta chỉ thích đọc những câu “vừa ý mình”, tránh những câu “chói tai” càng nhiều càng tốt. Người ta nói rất mạnh khi gặp đoạn Kinh Thánh không “chạm” tới mình, nhưng lại “bẻ lái” khi gặp đoạn Kinh Thánh “hóc búa”, vì có những câu “chạm” mạnh quá, nên họ cảm thấy… “nhột” lắm!
Lời Chúa là thế, có lúc khiến chúng ta vui mừng phấn khởi, nhưng có lúc làm chúng ta đau điếng. Nhưng có dám chịu “nỗi đau” đó thì mới khả dĩ “bừng cơn mê” mà sớm thành nhân. Chỉ có thuốc đắng mới “đã” tật!
Đức Giêsu là Mục Tử Nhân Lành và là Chúa Chiên Lành, Ngài xác định: “Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến đểcho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:7-10). Mục Tử Nhân Lành là vậy, luôn sống và hành động vì người khác, vì đoàn chiên. Ai không là chủ chiên nhân hậu như Đức Giêsu Kitô thì chỉ là “thợ chiên” (chăn thuê) mà thôi. Đi qua Cửa đó sẽphải chịu “đau nhức” lắm đấy!
Liên quan sự viên mãn, Thánh Phaolô có mơ ước và cũng là lời kêu gọi: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Kitô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủsức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cảsự viên mãn của Thiên Chúa” (Ep 3:17-19). Trong lời kinh hòa bình, Thánh nghèo khó Phanxicô Assisi đã nguyện ước thực tế mà sâu sắc: “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”. Và ngài tin chắc: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Đó chính là sự-sống-dồi-dào của những người tin thật Đức Giêsu Kitô là Thiên-Chúa-nhập-thể-làm-người, là Con-Thiên-Chúa-chịu-chết-và-phục-sinh.
Trong cuộc sống con người, những người thân thích được gọi là “họ máu”. Máu rất quan trọng. Máu có màu đỏ tươi, rất đẹp, và cũng rất đắt giá. Chúa Giêsu đã cứu độ chúng ta bằng Giá Máu. Chính nhờ Giá Máu đó mà chúng ta được phục hồi cương vị làm con và được hưởng sự sống dồi dào trong ân nghĩa với Thiên Chúa.
Hôm nay là Chúa Nhật CHÚA CHIÊN LÀNH, ngày cầu cho ơn thiên triệu dâng hiến – ơn gọi Linh mục và Tu sĩ. Ngày xưa, Đức Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Và Ngài đã nhắn nhủ với môn đệ: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9:37-38).
Lạy Thiên Chúa hằng hữu và giàu lòng thương xót, xin giúp chúng con biết sẵn sàng quên mình mà dấn thân vì chân lý, vì công lý, và vì tha nhân – nhất là vì những người hèn mọn. Xin cho chúng con được sự sống dồi dào của Ngài, biết thể hiện sự sống đó bằng hành động cụ thể chứ không bằng lời nói suông, thực sự trở nên “Kitô khác” chứ không “khác Kitô”, chấp nhận chịu thiệt thòi và bị người đời ghét bỏ. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU


(*) Thánh Maximilian Maria Kolbe, linh mục Dòng Phanxicô (O.F.M.), sinh ngày 8-1-1894, tử đạo ngày 14-8-1941 tại trại tập trung Auschwitz của Đức Quốc Xã hồi thếchiến II. Ngài được tuyên xưng là vị tử đạo bác ái, vì ngài đã động lòng trắc ẩn mà chịu chết thay cho một tử tù còn vợ con. Ngài được Thánh GH Gioan Phaolô II tuyên thánh ngày 10-10-1982, ngài được chọn làm thánh bổn mạng của những người nghiện ma túy, các tù nhân chính trị, các gia đình, các ký giả, và phong trào bảo vệsự sống. Thánh GH Gioan Phaolô II đã tôn ngài làm “Thánh Bổn Mạng của Thế KỷKhó Khăn” – tức là thời đại chúng ta đang sống. Thánh Maximilian đã nỗ lực thúc đẩy phong trào tận hiến và phó thác cho Đức Mẹ, do đó ngài được mệnh danh là Tông Đồ Tận Hiến cho Đức Mẹ. Cái chết của ngài là đỉnh điểm của sự sống hoàn toàn tận hiến cho Đức Mẹ, và người ta gọi ngài là “Gã Khờ của Đức Mẹ”, bởi vì ngài đã làm mọi thứ cho Đức Mẹ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét