SỰ SỐNG DỒI DÀO
( Chúa Nhật IV Phục Sinh, năm A)
Nhân lành Mục tử Giêsu
Kiếm tìm chiên lạc ốm o gầy mòn
Đưa về an ủi, chăm nom
Sớm chiều lo liệu mọi phần cho chiên
Có câu chuyện kể rằng…
Một hôm, cậu lễ sinh vừa cười vừa tròn mắt nhìn linh mục xứ và
nói:
– Ôi, cha có mùi gì lạ thế?
– Mùi gì?
Linh mục cười và xoa đầu cậu bé:
– À, tưởng gì. Cha mới tắm cho mấy con heo bên nhà hàng xóm, mùi
heo là tất nhiên rồi!
– Sao cha lại làm việc ấy?
– Không có việc xấu, chỉ có người xấu. Ông ấy đã già,
không thân nhân, nuôi heo để sinh sống. Mấy hôm nay ông ấy bị mệt,
cha phải giúp ông ấy thôi.
– Dạ, con hiểu rồi.
Hôm sau, cậu lễ sinh cười:
– Ôi, hôm nay cha lại có mùi gì kỳ lắm. Mùi này tanh lắm!
– À, hồi nãy cha đi thăm mấy bệnh nhân nằm liệt, không ai giúp đỡ,
cha phải giúp họ vệ sinh cá nhân.
– Dạ, con hiểu rồi.
Tuần sau, cậu lễ sinh ngạc nhiên nói:
– Mùi lúc này khác lạ lắm, cha ơi!
– Thế con thấy mùi gì?
– Mùi này không hôi, không tanh, không khó chịu, mà thơm tho lắm,
dễ chịu lắm.
– Cái thằng này, mũi thính thế!
Cậu bé gãi đầu, ngập ngừng:
– Nhưng…
– Nhưng gì nào?
– Nhưng… con thích… ngửi mùi hôi… hơn mùi… thơm.
Linh mục tròn mắt:
– Sao vậy? Thơm không thích mà thích hôi à?
– Mùi hôi tanh là mùi thật. Mùi thơm là mùi giả. Cha hôi thì con
còn muốn đến gần, cha thơm thì con không dám đến gần, vì cha sang trọng quá!
Chúa Giêsu cần chiên đen hơn chiên trắng, luôn gần gũi người nghèo khổ chứ đâu
có thân thích với người giàu có.
– Cha xin lỗi và cảm ơn con. Từ nay cha sẽ cố gắng
giống Ngài hơn!
Câu chuyện ngắn gọn nhưng chứa đựng triết lý sống tích cực về nhân
bản. Thiên Chúa là tình yêu, là vị Mục Tử luôn chạnh lòng thương, và
vì giàu lòng thương xót, Ngài chấp nhận bỏ 99 con chiên trắng để đi
tìm cho được 1 con chiên đen (Mt 18:12-14; Lc 15:4-7). Ngài không muốn ai
phải sống èo uột, mà chỉ muốn mọi người được sống dồi dào, sống viên mãn,
sống đúng nhân vị và nhân phẩm của con người, đồng thời cũng được hưởng
nhân quyền và sự tự do đích thực – cả vềxã hội lẫn tôn giáo. Muốn
được vậy thì chắc chắn chúng ta phải “đi qua” Đức Giêsu Kitô.
Thật vậy, chỉ có Đức Giêsu Kitô là Con Đường duy nhất dẫn đến
Chúa Cha (Ga 14:6) và là Nguồn Sống dồi dào (Ga 10:10) cho chúng ta. Đức Giêsu
Kitô không chỉnuôi sống chúng ta bằng ân sủng mà đặc biệt là chính Mình Máu
Ngài để chúng ta được sống dồi dào, vì Ngài là Thiên Chúa của người sống
chứ không là Thiên Chúa của người chết (Mt 22:32; Mc 12:27; Lc 20:38).
Tuy nhiên, nếu muốn có sự sống dồi dào thì mỗi
cành-nho-chúng-ta phải nối kết với Cây Nho Thật để được truyền nhựa-yêu-thương
(Ga 15:1-17). Cây càng có nhiều nhựa thì càng có nhiều sức sống, con người cũng
vậy, đặc biệt là sự sống tâm linh, sự sống từ Thiên Chúa.
Khi được tái sinh bởi Đức Giêsu Kitô, người ta biến đổi hoàn
toàn để trở thành một con người mới – tội nhân trở thành thánh
nhân. Hồi đó, sau khi Chúa Giêsu đã phục sinh, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười
Một lớn tiếng nói với tất cảnhững người đang cư ngụ tại Giêrusalem,
và lắng nghe những lời ông nói: “Toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết
chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người
làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 2:36). Nghe thế, họ đau đớn
trong lòng, và hỏi ông Phêrô cùng các Tông Đồ khác: “Thưa các anh,
vậy chúng tôi phải làm gì?”. Biết hỏi như vậy là dấu hiệu tốt lành biết
bao, vì chứng tỏ tâm hồn đã thực sự biết sám hối lỗi lầm, biết khao
khát điều tốt, và biếtước muốn hướng thiện!
Thấy họ chân thành hỏi như vậy, ông Phêrô đáp: “Anh
em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn
tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. Thật vậy, đó là
điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những
người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu
gọi” (Cv 2:38-39). Ông Phêrô còn dùng nhiều lời khác để long trọng
làm chứng và khuyên nhủ họ. Rồi ông nói: “Anh em hãy tránh xa thế hệ gian
tà này để được cứu độ” (Cv 2:40). Những ai đã đón nhận lời ông
thì đều xin được lãnh nhận phép rửa, muốn được tái sinh để hy vọng được
vào Nước Trời (Ga 3:5). Thật kỳ lạ, ngay hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn
người theo đạo. Việc Chúa làm thật lạ lùng vô cùng!
Ngày nay, chúng ta có phương tiện định vị toàn cầu giúp người
ta không lạc lối, nhưng chỉ có Chúa Giêsu mới chính là “định vị kế”
chuẩn mực nhất. Người nào nhận biết được như vậy thì sẽ an vui tín
thác vào Ngài, để Ngài quan phòng và tiền định, vì người đó xác định: “Chúa
là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi,
Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức
cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dựcủa Người” (Tv
23:1-3).
Chắc chắn người đó cũng luôn an tâm vững chí và hạnh phúc thân
thưa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc
ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn
chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc
đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền
miên” (Tv 23:4-6). Thật vậy, ai tuân giữlời dạy của Đức Kitô thì không
bao giờ phải lạc đường và cũng không phải chết (Ga 8:51).
“Lòng nhân hậu và tình thương của Thiên Chúa” không hề xa lạ,
bởi vì đó chính là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa mà ngày nay đang rất phổ biến
khắp nơi trên thế giới, từ thành thị tới thôn quê, từ người
già tới người trẻ. Không ai không là tội nhân, và vì thế mà không ai lại
không cần đến Lòng Chúa Thương Xót. Hằng ngày, khi cầu nguyện bằng Kinh Mai
Côi, chúng ta vẫn nhiều lần tha thiết cầu xin: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha
tội chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên
Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn”. Nhưng
cũng rất có thể vì quen quá hóa nhàm nên chúng ta không thực sựchú ý hoặc
không cảm nhận lời cầu da diết như vậy.
Đời sống tâm linh được lồng trong đời thường, vẫn có đủ thất
tình (hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố,dục) theo bản tính phàm nhân. Do đó mà chúng
ta luôn phải cố gắng không ngừng, sơ sảy một chút là té nhào ngay
thôi. Đôi khi còn có những điều trái tai, gai mắt, và chúng ta phải “vượt qua
chính mình”. Thánh Phêrô nói: “Nếu có tội mà anh em bị đánh đập và
đành chịu thì nào có vẻ vang gì? Nếu làm việc lành và phải khổ mà anh
em vẫn kiên tâm chịu đựng, đó là ơn Thiên Chúa ban” (1 Pr 2:20).
Thật vậy ư? Chúng ta hãy nghe Thánh Phêrô giải thích: “Anh em được
Thiên Chúa gọi đểsống như thế. Thật vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì
anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm
tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người
không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó
thác cho Đấng xét xử công bình” (1 Pr 2:21-23). Cái khó là “im lặng”
và “phó thác” cho Chúa.
Chính Chúa Giêsu là Nguồn Sống nhưng Ngài đã chịu bị giết
chết, không phải Ngài đáng bị như vậy, mà Ngài chịu thay cho chúng
ta, Ngài chịu chết để chúng ta có cơhội sửa sai và có thể phục sinh
vinh quang như Ngài: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang
vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội,
chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh
em đã được chữa lành. Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con
chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn
anh em” (1 Pr 2:24-25). Chúa Giêsu chết vì tội lỗi của chúng ta, nghĩa
là chúng ta cũng phải dám chết cho tội lỗi của chính mình – và tội lỗi của người
khác, nhờ đó mà được sống lại và được sống dồi dào trong Đức Giêsu Kitô Phục
Sinh.
Chúa Giêsu là Con Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống (Ga
14:6), đồng thời Ngài còn là Cửa (Ga 10:9), chính Cửa này dẫn vào Nguồn Sống Dồi
Dào của Thiên Chúa:“Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào
ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp.
Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho
anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng
ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận
biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽchạy trốn, vì
chúng không nhận biết tiếng người lạ” (Ga 10:1-5). Nghe Đức Giêsu nói
vậy, người ta không hiểu Ngài nói gì.
Tất nhiên không chỉ khó hiểu đối với những người thuộc nhóm
Pha-ri-sêu hồi đó, mà còn khó hiểu đối với cả chúng ta ngày nay, thậm chí
có khi chúng ta còn không muốn hiểu. Thật vậy, những lời Chúa Giêsu nói nghe
không thấy có gì “gay gắt”, nhưng thực ra hiểu rồi thì mới cảm thấy “đụng chạm”
và “nhức óc” lắm, vì Ngài muốn nhấn mạnh đến tính chất cần thiết của Mục Tử Nhân
Lành. Mục tử đó phải thể hiện lòng thương xót và dám liều mạng vì
đoàn chiên. Nói đến lòng trắc ẩn, và đặc biệt trong Tháng Hoa, chắc hẳn
nhiều người còn nhớ gương yêu thương sáng chói của Thánh tử đạo Lm
Maximilian Maria Kolbe (*).
Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành đích thực, Ngài yêu thương mọi
người, và Ngài chỉ muốn mọi người “đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi,
nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3:18), nhất là những
người được lãnh nhận tác vụ linh mục, họ cũng PHẢI là những mục tử nhân
hậu, PHẢI biết phục vụ chứ không hưởng thụ (Mt 20:28), thế nhưng
vẫn thấy có những người thích dùng quyền và ra lệnh hơn là khiêm nhường phục vụ vì
yêu thương. ĐGH Phanxicô đã từng cảnh báo các giám mục: “Mục tử có
nguy cơ bị mê hoặc bởi viễn tượng nghề nghiệp, bởi cám dỗ về tiền
bạc, và những thoả hiệp theo tinh thần thếgian”. Có lần ngài nhấn mạnh
rằng giám mục là người được chọn để phục vụ một Giáo hội duy nhất, vì
thế không được tìm kiếm một việc gì khác ngoài việc phục vụ Giáo hội,
và ngài đã nói thẳng: “Nếu tìm kiếm một việc gì khác thì chính giám mục
đó đang ngoại tình”. Gương “giám mục xa hoa” Franz Peter Tebartz van Elst
(người Đức) còn đó, và rồi ông đã bị đình chỉ nhiệm vụ hồi tháng
10-2013. Chắc hẳn Mục Tử Giêsu buồn lắm!
Nhắc tới những điều “nhạy cảm” như vậy, có những người “nhột”
(chính họ nhột hoặc nhột dùm), nhưng phải nhột như vậy mới có thể “thức
giấc”. Chúng ta chỉtâng bốc nhau bằng những lời khen sáo rỗng để lấy lòng
nhau thì có ai lợi gì không, hay lại chỉ dìu nhau vào con đường mê lầm?
Dám nhìn thẳng vào sự thật mới là người yêu sự thật, và nhờ đó mới
có thể thành nhân. Sợ sự thật hoặc tránh sự thật là đồng
lõa với sự giả dối, đừng biện hộ vì thế này hoặc thế nọ,
và cũng đừng ảo tưởng “chiếc bánh vẽ” nào đó!
Cũng vậy, khi đọc Lời Chúa thì người ta chỉ thích đọc những
câu “vừa ý mình”, tránh những câu “chói tai” càng nhiều càng tốt. Người ta nói
rất mạnh khi gặp đoạn Kinh Thánh không “chạm” tới mình, nhưng lại “bẻ lái”
khi gặp đoạn Kinh Thánh “hóc búa”, vì có những câu “chạm” mạnh quá, nên họ cảm
thấy… “nhột” lắm!
Lời Chúa là thế, có lúc khiến chúng ta vui mừng phấn khởi, nhưng
có lúc làm chúng ta đau điếng. Nhưng có dám chịu “nỗi đau” đó thì mới khả dĩ
“bừng cơn mê” mà sớm thành nhân. Chỉ có thuốc đắng mới “đã” tật!
Đức Giêsu là Mục Tử Nhân Lành và là Chúa Chiên Lành, Ngài
xác định: “Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều
là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được
cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến
để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến đểcho chiên được sống
và sống dồi dào” (Ga 10:7-10). Mục Tử Nhân Lành là vậy, luôn sống
và hành động vì người khác, vì đoàn chiên. Ai không là chủ chiên nhân hậu
như Đức Giêsu Kitô thì chỉ là “thợ chiên” (chăn thuê) mà thôi.
Đi qua Cửa đó sẽphải chịu “đau nhức” lắm đấy!
Liên quan sự viên mãn, Thánh Phaolô có mơ ước và cũng
là lời kêu gọi: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Kitô ngự trong
tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái,
để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủsức thấu hiểu mọi kích thước dài
rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu
biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cảsự viên mãn của
Thiên Chúa” (Ep 3:17-19). Trong lời kinh hòa bình, Thánh nghèo khó
Phanxicô Assisi đã nguyện ước thực tế mà sâu sắc: “Xin cho
con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”. Và ngài tin chắc: “Chính
lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Đó chính là sự-sống-dồi-dào của những
người tin thật Đức Giêsu Kitô là Thiên-Chúa-nhập-thể-làm-người, là
Con-Thiên-Chúa-chịu-chết-và-phục-sinh.
Trong cuộc sống con người, những người thân thích được gọi là “họ máu”.
Máu rất quan trọng. Máu có màu đỏ tươi, rất đẹp, và cũng rất đắt giá. Chúa
Giêsu đã cứu độ chúng ta bằng Giá Máu. Chính nhờ Giá Máu đó mà chúng
ta được phục hồi cương vị làm con và được hưởng sự sống dồi dào trong
ân nghĩa với Thiên Chúa.
Hôm nay là Chúa Nhật CHÚA CHIÊN LÀNH, ngày cầu cho ơn thiên
triệu dâng hiến – ơn gọi Linh mục và Tu sĩ. Ngày xưa, Đức Giêsu thấy đám
đông thì chạnh lòng thương vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên
không người chăn dắt. Và Ngài đã nhắn nhủ với môn đệ: “Lúa chín đầy
đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra
gặt lúa về” (Mt 9:37-38).
Lạy Thiên Chúa hằng
hữu và giàu lòng thương xót, xin giúp chúng con biết sẵn sàng quên mình mà dấn
thân vì chân lý, vì công lý, và vì tha nhân – nhất là vì những người hèn mọn.
Xin cho chúng con được sự sống dồi dào của Ngài, biết thể hiện sự sống
đó bằng hành động cụ thể chứ không bằng lời nói suông, thực sự trở nên
“Kitô khác” chứ không “khác Kitô”, chấp nhận chịu thiệt thòi và bị người
đời ghét bỏ. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ chúng
con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) Thánh Maximilian Maria Kolbe, linh mục Dòng Phanxicô
(O.F.M.), sinh ngày 8-1-1894, tử đạo ngày 14-8-1941 tại trại tập trung
Auschwitz của Đức Quốc Xã hồi thếchiến II. Ngài được tuyên xưng là vị tử đạo
bác ái, vì ngài đã động lòng trắc ẩn mà chịu chết thay cho một tử tù
còn vợ con. Ngài được Thánh GH Gioan Phaolô II tuyên thánh ngày
10-10-1982, ngài được chọn làm thánh bổn mạng của những người nghiện ma túy,
các tù nhân chính trị, các gia đình, các ký giả, và phong trào bảo vệsự sống.
Thánh GH Gioan Phaolô II đã tôn ngài làm “Thánh Bổn Mạng của Thế KỷKhó
Khăn” – tức là thời đại chúng ta đang sống. Thánh Maximilian đã nỗ lực
thúc đẩy phong trào tận hiến và phó thác cho Đức Mẹ, do đó ngài được mệnh danh
là Tông Đồ Tận Hiến cho Đức Mẹ. Cái chết của ngài là đỉnh điểm của sự sống
hoàn toàn tận hiến cho Đức Mẹ, và người ta gọi ngài là “Gã Khờ của Đức Mẹ”,
bởi vì ngài đã làm mọi thứ cho Đức Mẹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét