Thứ Sáu, 12 tháng 5, 2017

MỆNH LỆNH PHỦ ĐỊNH (Chúa Nhật V Phục Sinh, năm A)



MỆNH  LỆNH  PHỦ  ĐỊNH
( Chúa  Nhật  V  Phục  Sinh,  năm  A)
(Mon, 08/05/2017 - Trầm Thiên Thu)


Trong các ngôn ngữ đều có dạng mệnh lệnh cách (imperative), dạng câu ngắn nhất: chỉ một động từ. Mệnh lệnh dùng để khuyến khích hoặc ngăn cấm, có thể là mệnh lệnh xác định – hãy làm điều này, hãy nhớ điều kia, hoặc mệnh lệnh phủ định – chớ làm điều kia, đừng làm điều nọ. Mỗi dạng mệnh lệnh đều có đặc tính nhất định.

Mệnh lệnh xác định thường dùng để khuyến khích hoặc động viên, mệnh lệnh phủ định thường dùng để ngăn cấm. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại sử dụng mệnh lệnh cách phủ định để khuyến khích chứ không để ngăn cấm. Ngài động viên: “Đừng xao xuyến!” (Ga 14:1; Ga 14:27). Tương tự, Thánh Phêrô cũng khuyến khích: “Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến” (1 Pr 3:14). Câu nói động viên chúng ta “đừng sợ và đừng xao xuyến” cũng chính là bảo chúng ta “đừng nhút nhát và đừng lo lắng”. Như vậy có nghĩa là phải can đảm, muốn can đảm thì phải mạnh mẽ, muốn mạnh mẽ thì phải cầu xin Chúa Thánh Thần: “Veni Sancte Spiritus! Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến!”.

Chính Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta biết Ngôi Ba Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần hoặc Thánh Linh, cũng gọi là Thần Khí. Nhưng đôi khi người ta có thể ảo tưởng mà lầm lẫn, cái gì cũng bảo là “Ý Chúa”. Vì thế, Thánh Gioan Tông Đồ đã khuyên chúng ta PHẢI cảnh giác và đưa ra cách nhận biết: “Anh em ĐỪNG cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy CÂN NHẮC các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian. Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên người phàm thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa; còn thần khí nào không tuyên xưng Đức Giêsu thì không bởi Thiên Chúa, đó là thần khí của tên phản Kitô. Anh em đã nghe nói là nó đang tới, và hiện nay nó ở trong thế gian rồi” (1 Ga 4:1-3).

Quả thật, lời cảnh báo của Thánh Gioan thực sự đáng sợ! Và chúng ta cũng đã và đang thấy nhiều thứ giả, trong đó có “người giả” đủ loại – cả đời và đạo. Những điều tương tự cũng đã được Đức Mẹ nhiều lần tiên báo. Do đó, sự cảnh giác càng cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết, đặc biệt trong thế kỷ XXI đầy những khó khăn này, càng văn minh càng nhiêu khê. Đúng là cái chữ @ nó “vòng vo” rắc rối quá chừng!

Trong cuộc sống (đời và đạo) luôn có nhiều thứ khiến chúng ta xao xuyến, chia trí. Ma quỷ có thiên hình vạn trạng, nó len lỏi vào bất cứ nơi nào, thậm chí ma quỷ có thể cám dỗ chúng ta cảm thấy mình đạo đức và thánh thiện. Đó là dạng cám dỗ rất nguy hiểm, vì là dạng GIẢ DANH GIẢ NGHĨA. Thà rằng nó cám dỗ chúng ta khô khan, phạm tội, hoặc “quay lưng” lại với Chúa thì chúng ta dễ nhận biết mà tránh, đằng này nó lại làm cho chúng ta cảm thấy rất gần Chúa, thực ra chỉ là “bẫy ảo giác” nó giăng để chúng ta dễ sập bẫy, thế mới đáng sợ, và chúng ta phải rất tỉnh thức – cảnh giác với cả chính mình!

Một người quen (tại Hoa Kỳ) cho biết rằng em gái của họ lấy chồng là Phật tử, người chồng này làm cho cô vợ bỏ đạo Công giáo và nói xấu Công giáo đủ thứ. Ngay tại Saigon, một thanh niên đã bỏ đạo Công giáo, rồi cạo đầu và quy y, anh ta bảo rằng theo Công giáo phải giữ nghiêm luật nên “căng” quá, theo Phật giáo “khỏe” hơn nhiều. Tại Đồng Nai, một nữ tu bỏ đạo Công giáo rồi đi lập chùa riêng và làm ni cô trụ trì. Thiên hình vạn trạng!

Khi thấy có những trường hợp như vậy, chúng ta đừng vội hoang mang hoặc xao xuyến, vì đó là những trường hợp hiếm hoi, chỉ đủ đếm trên đầu ngón tay mà thôi. Thật ra họ chỉ bất mãn một vấn đề nào đó vì họ không được “như ý”, đồng thời họ là những người “yếu bóng vía” và chẳng hiểu rõ Công giáo, lý luận của họ chỉ là dạng “lý sự cùn”, đầu óc thiển cận hoặc giống như “ếch ngồi đáy giếng” mà thôi. Hãy quên họ đi!

Đối với những người thực sự giỏi (đúng nghĩa), họ không như vậy, thực tế cho chúng ta biết rằng người ta càng giỏi thì càng tin có Thiên Chúa. Đa số các bác học đều là những người tin vào Thiên Chúa. Khoảng 40 năm trước, Đức cố TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình (1910-1995) đã rửa tội cho một Thượng tọa Phật giáo cao niên vào chính đêm mừng Con Chúa giáng sinh. (Nay chợt hồi tưởng liên quan chuyện “theo đạo”, nhưng tiếc rằng lâu quá rồi, tôi không còn nhớ tên ông cựu họ Thích này!). Hơn 20 năm trước, một ni cô chán “ăn chay trường” rồi gia nhập Công giáo, sau đó cô này lấy chồng là người Công giáo. Vợ chồng họ vẫn sống hạnh phúc tại Thủ Dầu Một (Bình Dương).

Thiết tưởng cũng nên xác định rằng không một người nào lập đạo mà dám nói “tôi là Thiên Chúa”, chỉ có Chúa Giêsu. Chẳng có ai làm được những phép lạ như Đức Giêsu đã làm. Và cũng chỉ có Đức Giêsu dám nói: “Tôi là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6). Đơn giản như vậy thôi cũng đủ để chúng ta biết đâu là “chân lý thật” và đâu là “chân lý giả”. Chính khoa học và khoa khảo cổ càng ngày càng phát hiện những điều chính xác như Kinh Thánh đã đề cập hàng ngàn năm trước. Các giáo phái ly khai với Công giáo, nghĩa là trước đó chính họ là Công giáo. Họ ly khai vì theo ý riêng chứ không muốn theo ý chung của Giáo Hội.

Sự thật mãi mãi là sự thật, và chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát chúng ta (Ga 8:32). Sách Công Vụ đưa ra bằng chứng cụ thể: Khi nghe ông Phêrô rao giảng việc ăn năn sám hối, chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội, và nhận được ân huệ là Thánh Thần, ngay lúc đó đã có khoảng ba ngàn người theo đạo (Cv 2:38-41). Đâu có thể đơn giản mà có số người đông như vậy cùng gia nhập đạo một lúc, cũng đâu phải họ theo đạo cho vui hoặc có lợi về vật chất! Hàng tháng, tại nhiều nhà thờ Công giáo vẫn có những người trưởng thành (chứ không nói chi trẻ em) vui mừng lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy. Đó là những bằng chứng hùng hồn, thực sự là phép lạ mà Chúa Thánh Thần vẫn đang tác động không ngừng trong Giáo Hội – Nhiệm Thể Đức Giêsu Kitô.

Chúng ta cũng vẫn thấy có những người gia nhập Công giáo khi họ đã thực sự trưởng thành (tâm sinh lý), thậm chí là lớn tuổi, họ sống đạo rất tốt với một đức tin trưởng thành và vững mạnh. Đặc biệt là có những người theo đạo Công giáo rồi đi tu trở thành tu sĩ hoặc linh mục – trong đó có Lm Thiên Phong Bửu Dưỡng (*). Họ là những người đã trưởng thành, chắc chắn không ai có thể “dụ dỗ” được họ nếu họ không thực sự tin vào Đức-Giêsu-nhập-thể-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh. Ai cảm thấy còn “đắn đo”, hãy cố gắng củng cố và giữ vững lòng tin, hãy hãnh diện về Đức Tin Công giáo, và đừng bao giờ xao xuyến vì bất cứ điều gì!

Chúng ta không phủ nhận rằng Giáo hội Công giáo đặt tiêu chuẩn cao về luân lý, rất cảm thông với người bất đồng ý kiến, nhưng không nhượng bộ bất kỳ áp lực nào. Tất cả chúng ta đều là tội nhân, nhưng Chúa Giêsu không chỉ chịu chết vì chúng ta, mà Ngài còn thiết lập bí tích Hòa giải để tha thứ tội lỗi, để thương xót và ban ân sủng cho chúng ta, giúp chúng ta sống đời sống luân lý tốt hơn. Tất cả là Hồng Ân.

Ngày xưa, khi Chúa Giêsu đã phục sinh và số môn đệ thêm đông, các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy Lạp đã kêu trách các tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống là điều không phải. Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa” (Cv 6:2-4).

Và trình thuật Cv 6:5-7 cho biết: “Đề nghị đó được mọi người tán thành. Họ chọn ông Tê-pha-nô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Phi-líp-phê, Pơ-rô-khô-rô, Ni-ca-no, Ti-môn, Pác-mê-na và ông Ni-cô-la, một người ngoại quê An-ti-ô-khi-a đã theo đạo Do-thái. Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông. Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Giê-ru-sa-lem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin. Đó chính là Nhóm Bảy Người, tức là các Phó tế đầu tiên của Giáo hội, trong đó có Phó tế Tê-pha-nô về sau chịu tử đạo. Không chỉ có Phó tế Tê-phan-nô mà còn biết bao vị tử đạo khác đã xả thần vì danh Đức Giêsu Kitô, ở mọi nơi và mọi thời. Ngày nay cũng vẫn có các chứng nhân ở đâu đó trên thế giới…

Đây là niềm hãnh diện của Kitô hữu: “Vinh quang của tôi là Thập Giá của Đức Giêsu Kitô – Mea Gloria est Crux Christi” (Gl 6:14). Chắc chắn không ai và không tôn giáo nào có dạng vinh quang “ngược đời” như Kitô giáo. Trong chúng ta, chắc chắn ai cũng sợ đau khổ, nhưng khi đã cảm nhận được đau khổ, người ta lại bị đau khổ thu hút. Thập Giá có sức hấp dẫn kỳ lạ. Vô tri bất mộ. Người không có niềm tin Kitô giáo sẽ chẳng bao giờ hiểu được điều đó, thế nên người vô thần bảo tôn giáo là thuốc phiện đã “ru ngủ” chúng ta – các Kitô hữu có vinh quang là Thập Giá của Đức Kitô.

Thánh Vịnh gia hân hoan mời gọi: “Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa, kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen. Tạ ơn Chúa, gieo vạn tiếng đàn cầm, kính mừng Người, gảy muôn cung đàn sắt” (Tv 33:1-2). Và rồi không thể lặng im lâu, Thánh Vịnh gia phải giải thích ngay lập tức: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất”(Tv 33:4-5).

Thánh Gioan cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), kỳ lạ là Ngài yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân (Rm 5:8), còn thù nghịch với Ngài (Rm 5:10), thậm chí Ngài còn chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu đó quá lớn lao, lòng thương xót quá bao la và sâu thẳm. Ngài luôn quan tâm chúng ta: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn” (Tv 33:18-19).

Nhưng chính mỗi chúng ta đều phải xem lại chính mình, như Thánh Giacôbê đã phân tích: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão” (Gc 1:26).

Thánh Phêrô vừa khuyên nhủ vừa động viên: “Anh em hãy tiến lại gần Đức Kitô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá. Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô. Quả thật, có lời Kinh Thánh chép: Này đây Ta đặt tại Sion một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng” (1 Pr 2:4-6). Lòng thương xót của Thiên Chúa quá đỗi kỳ diệu, chúng ta không thể nào hiểu nổi!

Thánh Phêrô cho biết thêm về hạnh phúc của các Kitô hữu, những người được tái sinh bởi Nước và Thánh Thần: “Vậy vinh dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không tin thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy. Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánhdân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền” (1 Pr 2:7-9). Có nhiều dạng ơn thiên triệu, nói theo bình dân là “ơn gọi”, và ơn thiên triệu nào cũng cao cả: Ơn gọi tu trì, ơn gọi kết hôn, ơn gọi độc thân,... Ơn gọi nào cũng là để hoàn tất sứ mạng theo kế hoạch của Thiên Chúa.

Cuộc sống không hề đơn giản, nhiệm vụ nào cũng khó, vì thế Chúa Giêsu đã động viên: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14:1). Cuộc sống đã và đang chứng tỏ cho chúng ta thấy như vậy, đúng là chỉ có Thiên Chúa là cứu cách và cùng đích, thiếu Đức Kitô thì chúng ta không thể làm được gì, dù là điều nhỏ nhoi (x. Ga 15:5). Chúng ta có hoang mang hoặc lo sợ thì cũng chẳng “chuyển hóa” được gì, đúng như có lần Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được” (Mt 5:36). Vì thế mà chúng ta phải sống theo lời khuyên của Ngài: “Đừng xao xuyến!”. Nói theo kiểu nói ngày nay: “Cứ vô tư mà sống!”. Lo bạc râu, sầu bạc tóc. Mà có lo cũng chẳng được, cái gì đến sẽ đến, thế thì lo chi cho khổ? Nghe lời Chúa Giêsu bảo “đừng xao xuyến” cũng chính là tin vào sự TIỀN ĐỊNH và QUAN PHÒNG của Thiên Chúa vậy! Và có một điều thiết tưởng cũng nên lưu ý: cách nói “không xao xuyến” nghĩa là đừng chạy theo những cái mà người ta cho đó là “sự lạ”, dạng này thường xuyên được người ta “chú ý”, mà như vậy là chúng ta chưa thực sự tin vào Thiên Chúa, chưa thực sự tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót. Cẩn tắc vô ưu!

Tại sao không nên xao xuyến? Chúa Giêsu căn dặn: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:2-3). Người đời cũng biết nhận định: “Sinh ký, tử quy – sống gởi, thác về”. Thật vậy, thế gian chỉ là chuyến lữ hành về Thiên Đàng, “cuộc đời như chiếc cầu, hãy đi qua chứ đừng dừng lại trên đó” (Thánh nữ Catarina), chết không là hết mà chỉ là biến đổi, chính cái chết là “ngưỡng cửa” để bước vào sự sống đời đời. Thật hạnh phúc cho chúng ta vì được Chúa Giêsu hứa:“Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Đúng là niềm hạnh phúc của mọi niềm hạnh phúc!

Hôm đó, Chúa Giêsu bảo: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi”. Nghe vậy, ông Tôma “gãi đầu” và hỏi ngay: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”. Đức Giêsu cười và đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Đây là câu “nổi tiếng” trong Kitô giáo, được trích dẫn rất nhiều, và cũng là niềm hy vọng chắc chắn của những người tin vào Con Thiên Chúa, Đấng-nhập-thể-làm-người. Đức Giêsu nói thêm: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người” (Ga 14:7).

Sau đó, ông Philípphê xin Thầy Giêsu tỏ cho thấy Chúa Cha để được mãn nguyện., nhưng Ngài trách ông Philípphê ở với Ngài bao lâu rồi mà lại “hỏi ngớ ngẩn” như vậy. Rồi Ngài xác định: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9). Chắc chắn đó là cách hiểu vượt quá tầm hiểu của phàm nhân, nếu chúng ta ở bên Chúa Giêsu hồi đó thì chúng ta cũng vẫn “ngớ ngẩn” như Tông đồ Philípphê mà thôi, e rằng chúng ta còn “tệ” hơn thế đấy!

Chúa Giêsu nói thêm để giải thích cho ông Philípphê và các Tông đồ khác – đồng thời cũng là nói với mỗi chúng ta hôm nay: “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 14:10-12).

Và rồi một lần nữa, Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Đức Tin. Thật vậy, khi có đủ niềm tín thác vào Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, luôn quan phòng và tiền định cho mỗi người theo ơn gọi riêng, người ta sẽ thanh thản và sống theo lời khuyên và cũng là lời động viên của Đức Kitô Giêsu: “Đừng xao xuyến!”. Ước gì mỗi Kitô hữu chúng ta đều có thể xác định như Thánh Vịnh gia: “Chúa là gia nghiệp đời con” (Tv 16:5-6).

Lạy Thiên Chúa nhân hậu, con chỉ là hạt bụi bé nhỏ nhất mà đã làm bận mắt Ngài, xin thương ban thêm Đức Tin và lòng can đảm để con không bị dao động trước mọi nghịch cảnh, ngay cả khi đối diện với kẻ thù. Xin làm cho con nên thánh theo ước muốn và kế hoạch mầu nhiệm của Ngài. Xin ban Thần Khí Ngài để con sống can đảm và bình an. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(*) Lm Bửu Dưỡng (OP, Dòng Đa-minh, 1907-1987). Cậu ấm Bửu Dưỡng thuộc dòng dõi hoàng gia triều Nguyễn, là cháu trực hệ đời thứ năm của vua Minh Mạng. Thân phụ là cụ Ưng Trình, đại thần Cơ Mật viện và đại thần Tôn Nhơn Phủ (1936) và Thượng Thư. Thân mẫu là cụ bà Trần Thị Như Uyển, cũng dòng dõi quan lại cấp Thượng Thư.

Cậu Bửu Dưỡng là con trai thứ năm. Thiếu thời, cậu học trường Quốc Học Huế, rồi trường Cao Đẳng Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp, cậu trở về Huế làm thông phán sở Bưu Chính. Sinh trưởng trong gia đình hoàng tộc và tôn sùng đạo Phật, Bửu Dưỡng cũng rất ác cảm với Công giáo, nhưng “duyên Trời” ấn định khác.

Thượng tuần tháng 5-1928, cậu Bửu Dưỡng lên đường ra Quảng Trị, tìm lên vùng núi Phước Sơn, xin học giáo lý để nhận bí tích Rửa tội và gia nhập dòng Xitô (Cistercians). Lm Bề Trên Henri Denis (Cố Thuận, người Pháp) trực tiếp dạy giáo lý. Lễ rửa tội được cử hành ngày lễ Đức Mẹ lên trời, 15-8-1928. Tân tòng Bửu Dưỡng nhận thánh danh Bô-ni-pha-xi-ô (Bonifacius), nghĩa là “bộ mặt đẹp”. Bề Trên Dòng chủ lễ, bên cạnh là Phó tế Ta-đê-ô Lê Hữu Từ (sau đó làm giám mục).

Sau một năm ở tập viện Xitô Phước Sơn, tu sinh Bửu Dưỡng vì sức khỏe yếu, đau bao tử, bị chứng tê thấp, lại bị mụt nhọt ở chân, được Bề Trên cho về nhà nghỉ dưỡng bệnh tại gia đình ở Huế. Trong thời gian nầy, thầy Bửu Dưỡng có nhiều quan hệ với Dòng Chúa Cứu Thế, với ý muốn nhập dòng nầy nhưng không thành…

Trong khi dịch giùm cho các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế một số bài giảng, thầy được đọc sách của Thánh Tôma Aquinô, thầy say mê triết lý và thần học của vị tiến sĩ nổi tiếng thuộc Dòng Đa Minh và có ý muốn theo chân ngài trong một dòng tu chuyên nghiên cứu và thuyết giảng đạo lý Kitô giáo.

Linh mục Bề Trên Dòng Chúa Cứu Thế giới thiệu thầy với Dòng Đa Minh mới đến Hà Nội lập dòng và thầy được chấp nhận để thử một thời gian. Mọi sự đều êm xuôi. Thầy Bửu Dưỡng cảm thấy mình đi đúng hướng và được gởi đi du học tại Pháp ở Dòng Đa Minh chi nhánh Lyon.

Sau một năm tập viện, ngày 26-11-1936, tu sinh Bửu Dưỡng là người Việt Nam đầu tiên của tỉnh Dòng Đa Minh Lyon được tuyên khấn. Mặc dù mụt nhọt ở chân trở nên trầm trọng, thầy Bửu Dưỡng phải chịu giải phẩu cưa một chân, gắn chân giả. Bề Trên Dòng vẫn chấp nhận phong chức linh mục cho thầy vì khả năng trí tuệ đặc biệt của thầy.

Lễ phong chức được cử hành ngày 2-2-1940. Từ đó, linh mục con dòng cháu giống của vua chúa triều Nguyễn không còn gì trăn trở băn khoăn mà thẳng đường trực chỉ dấn thân rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Giêsu cho đến trọn đời.

Trong “Cuộc Hành Trình Của Đời Tôi”, Lm Bửu Dưỡng viết: “Trước kia tôi rất ghét Kitô giáo và không muốn có một liên hệ nào dù xa dù gần với các linh mục hay người có đạo. Tôi không bao giờ đọc một cuốn sách báo nào dính dáng đến đạo Công giáo. Cái ấn tượng ghét đạo đã khiến tôi trở thành cực đoan một cách vô lý, đến độ mỗi khi nhìn thấy chữ ‘Thiên Chúa’, tôi cảm thấy khó chịu và nếu có thể, tôi sửa thành chữ ‘Trời’. Khi dạy học cho các trẻ em, tôi chống lại việc dùng chữ Thiên Chúa. Lòng ác cảm đã khiến tôi trở thành điên rồ. Có những thời gian tôi cảm thấy bất an trong đời sống, dường như tôi đang trải qua những cơn khủng hoảng của đời sống, cái tâm trạng nầy kéo dài trong suốt ba năm liền… Những lần tôi không giải trí với các bạn trong giờ giải trí, những đêm dài mất ngủ, những buổi chiều trống rỗng, sau khi nghe vài bản nhạc buồn… Tất cả những tâm trạng ấy đưa tôi đến việc tự hỏi: ‘Có phải Kitô giáo là một tôn giáo thật và tôi phải theo hay không?’. Tôi phải theo? Thật là một điều ngoài trí tưởng tượng. Không bao giờ! Dù nó đúng, nó trật, nó hay… nhưng ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.


Ý Chúa nhiệm mầu, một Bửu Dưỡng thù ghét Công giáo đã trở thành một Bửu Dưỡng yêu mến Công giáo, và trở thành Linh mục Công giáo. Lm Bửu Dưỡng còn là người mở Học viện Minh Đức (Thủ Đức) nổi tiếng một thời trước năm 1975. May mắn tôi được gặp ngài một lần, được đọc cuốn “Ý Nghĩa Sự Đau Khổ” của ngài và “Công Đồng Vatican III” do ngài viễn tưởng. Trí óc của ngài đúng là một học giả hiếm có.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét