ĐỜN BÀ VÀ ĐỜN ÔNG
Chuyện
phiếm của Gã Siêu
Đờn bà và đờn ông, chuyện
dài của muôn đời, có lẽ viết mãi viết hoài cũng chẳng bao giờ hết. Đờn bà và đờn
ông có những khác biệt ngay từ lúc Thượng Đế cho ra lò tác phẩm đầu tay của
mình, thành thử nếu không khéo hòa hợp, những khác biệt ấy sẽ trở thành những đối
kháng làm cho tê liệt mọi sinh hoạt, thì quả thật là thậm chí nguy.
Phải, chị đờn bà thì chu
mỏ chê bai anh đờn ông, như tục ngữ ca dao đã diễn tả:
– Đờn ông ba bảy đờn ông,
Đem bỏ vào lồng cho kiến
nó tha.
Hay như:
– Ba đồng một chục đờn ông,
Ta bỏ vào lồng, ta xách
ta chơi.
Ai ngờ dây đứt, lồng rơi.
Nó bò lổm ngổm mỗi thằng
một nơi.
Trong khi đó anh đờn ông
thì lại ngán ngẩm, dài cổ ra mà ca với cẩm:
– Kiếp sau chẳng dám làm
chồng,
Làm cây cọc cắm bên sông
cũng đành.
Còn hơn có vợ bị hành,
Bầm lên dập xuống như
chanh cuối mùa.
Lương chưa kịp giấu sơ
cua,
Đã moi sạch nhách chẳng
chừa một xu.
Giữ chồng còn hơn giữ tù,
Đi đâu bà cũng lù lù theo
sau.
Bạn bè vừa mới gặp nhau,
Chai chưa kịp cạn, “về
mau, tối rồi”.
Điểm tâm sáng chỉ gói
xôi,
Cà phê, thuốc lá xa rời từ
lâu.
Tan sở chẳng dám đi đâu,
Đón con, ghé chợ mua rau,
mua hành.
Về nhà kho cá, nấu canh.
Lau chùi giặt giũ, dỗ
dành… bày heo.
Mười năm khổ vẫn còn đeo,
Trời ơi, cứu kiếp bọt bèo
của con. (PNCN số 45).
Mặc dầu sự đời vốn dĩ là
như thế, đờn bà và đờn ông tuy lườm nguýt nhau, nhưng vẫn cứ lôi cuốn, hấp dẫn
lẫn nhau, cho tình yêu được nở rộ, cho nòi giống được tồn tại. Anh đờn ông thì:
– Trai thấy gái lạ,
Như quạ thấy gà con.
Còn chị đờn bà thì:
– Đi đâu mà chẳng lấy chồng,
Người ta lấy hết chổng
mông mà gào.
Đây quả thực là ý muốn vừa
thâm sâu, lại vừa nhiệm màu của Đấng Tạo Hóa. Vì thế các cụ ta từ ngày xửa ngày
xưa vốn đã từng xác quyết: Nhất âm, nhất dương chi vi đạo. Âm dương, qui luật của
muôn đời, không phải chỉ là đạo người mà còn là đạo chung của tất cả vạn vật.
Thực vậy, muôn loài trong vũ trụ đều bị chi phối bởi luật âm dương. Hơn thế nữa,
âm và dương luôn thu hút lẫn nhau mà lưu truyền trong dòng thời gian. Vì thế,
anh đờn ông có liếc mắt đưa tình chị đờn bà, hay chị đờn bà có liếc mắt đưa
tình anh đờn ông, âu cũng là chuyện thường ngày ở huyện:
– Có âm dương, có vợ chồng,
Dẫu từ thiên địa, cũng
vòng phu thê.
Và như vậy, gã thấy trong
vũ trụ vật chất thì âm cũng cần, mà dương cũng cần. Còn trong cõi nhân sinh,
thì đờn bà cũng quí, mà đờn ông cũng trọng. Tuy nhiên điều đáng lưu ý đó là phải
biết điều hòa, chứ đừng nhất bên trọng, nhất bên khinh. Các cụ ta ngày xưa đã từng
dạy: Thái quá bất cập.
Nhân đức bao giờ cũng đứng
giữa, ở vào cái thế trung dung, chứ không nghiêng bên này, hay ngả bên kia. Âm
dương phải hòa hợp, nam nữ phải đề huề, thì mới liên tục phát triển: Gái có chồng
như rồng có vây. Bằng không thì rất khó mà tiến tới: Gái không chồng như cối
xay chết ngỏng.
Có biết tôn trọng lẫn
nhau, thì mới tạo được sự bình an và hạnh phúc. Còn gì êm đẹp cho bằng hình ảnh
vợ chồng đồng lao cộng khổ với nhau như ca dao tục ngữ đã diễn tả:
– Đôi ta là nghĩa tào
khang,
Xuống khe bắt ốc, lên
đàng hái rau.
– Trên đồng cạn, dưới đồng
sâu,
Chồng cày, vợ cấy, con
trâu đi bừa.
– Râu tôm nấu với ruột
bàu,
Chồng chan, vợ húp, gật đầu
khen ngon.
Còn nếu như bị “lệch
pha”, chẳng hạn như “âm thịnh dương suy” ắt sẽ tạo nên những bất ổn, như danh
ngôn đông tây vốn đã đề cập đến: Đờn bà không có đờn ông như vườn không có rào.
Trong khi đó: Đờn ông không có đờn bà như đàn đứt dây. Nhà không đờn bà như
thân xác thiếu mất linh hồn. Thành thử sau hai bài viết: thế giới không đờn bà
và nhân loại chẳng đờn ông, gã mới “ngộ” ra rằng, đó là hai thái cực không thể
nào chấp nhận được. Phải có đờn bà cũng như phải có đờn ông. Đồng thời cả hai
phải biết tựa vào nhau để mà sống.
De Zondeval
Đọc lại những trang đầu của
sách Sáng thế ký, gã thấy được một quan niệm rất đặc sắc về hôn nhân, cũng như
về đờn bà và đờn ông của Kitô giáo. Thực vậy, sau khi dựng nên Adong, Thiên
Chúa đặt ông đứng đầu để trông coi cá biển chim trời và muôn vật sống trên mặt
đất. Thấy ông sống cô độc, lẻ loi và cu ki, Thiên Chúa thầm nghĩ: Người đờn ông
ở một mình không tốt. Ta hãy dựng nên cho nó một người nội trợ giống như nó. Đợi
lúc ông ngủ say, Thiên Chúa bèn lấy một nửa chiếc xương sườn của ông mà tạo
thành người đờn bà. Rồi Ngài dẫn bà ra mắt ông. Thoạt nhìn thấy Eva, Adong đã mừng
rỡ, hớn hở kêu lên: Này đây mới thật xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi.
Nàng sẽ được gọi là người nữ vì bởi người nam mà ra. Như thế, Adong đã đồng hóa
Eva với chính thân xác của mình. Để diễn tả ý tưởng “một xương một thịt”, theo
gã nghĩ, trong tiếng Việt Nam của chúng ta có một danh từ thật dễ thương, thật
tuyệt vời, đó là chữ “mình”.
Bởi vì mình vừa là anh và
cũng lại vừa là em, vừa là chàng và cũng lại vừa là nàng. Vừa là ngôi thứ nhất:
– Mình làm ra chẳng ma
nào giúp.
Và cũng lại vừa là ngôi
thứ hai:
– Biển sâu sóng vỗ rập
rình,
Biển bao nhiêu sóng
thương mình bấy nhiêu.
Mình còn là cả chúng ta.
Ngoài ra, mình vừa là thân xác:
– Mình lính, tính quan.
Và cũng lại là cả con người
nữa.
Nếu thế thì khi thoạt
nhìn thấy Eva, Adong đã hớn hở gọi:
– Mình ơi!
Hai chữ “mình ơi” quả thật
đã ngọt hơn đường cát, mát hơn đường phèn và trên cả tuyệt vời nữa.
Từ hai chữ “mình ơi” gã bỗng
nhớ tới hai chữ “ai ơi”. Số là cách đây mấy chục năm tại Việt Nam người ta vẫn
còn e thẹn, dù đã là vợ chồng “mí nhau” nhưng rất ít khi người ta gọi nhau một
cách thẳng thừng:
Anh anh, em em.
Có hai vợ chồng trẻ mới
cưới. Chị vợ nấu cơm trong bếp. Anh chồng làm cỏ ngoài vườn. Khi nồi cơm đã
chín, từ trong bếp chị vợ bèn gọi vọng ra:
– Ai ơi về ăn cơm.
Anh chồng bèn hỏi:
– Cơm ai nấu.
Chị vợ liền trả lời:
– Ai nấu chứ ai.
Ôi chu choa, tiếng Việt
mình quả là dễ thương và hết xảy!!!
Cũng từ một nửa chiếc
xương sườn, gã liên tưởng đến hình ảnh một nửa trái tim. Có một câu chuyện thần
thoại kể về việc tạo dựng trái tim đờn bà và đờn ông được tóm lược như sau: Thưở
ban đầu, Thượng đế chỉ dựng nên có một trái tim duy nhất. Sau đó, Ngài bổ trái
tim ấy thành hai mảnh đều nhau. Một mảnh thì Ngài đặt trong thân xác người đờn
ông. Còn mảnh kia, thì Ngài đặt trong thân xác người đờn bà. Hai mảnh trái tim ấy
luôn khắc khoải tìm kiếm nhau. Cho dù hai người có sống cách xa nhau hàng ngàn
cây số, thì vẫn có những cuộc tình xuyên lục địa. Cho dù hai người có sống ở
hai bên bờ biển ngàn trùng, thì vẫn có những cuộc tình xuyên đại dương. Cho dù
hai người có sống ở những đất nước khác nhau, thì vẫn có những cuộc tình xuyên
quốc gia. Vì thế, người Pháp mới gọi người vợ hay người chồng thân thương của
mình là: Ma moitié! Có nghĩa là “Nửa của anh ơi!” “Nửa của em ơi!”
Qua hình ảnh một nửa chiếc
xương sườn và hai nửa trái tim, gã nhận thấy đờn bà và đờn ông đều đáng quí
đáng trọng và phải được bình đẳng với nhau. Nói tới hai chữ bình đẳng, hẳn
chúng ta lại nghĩ tới những phong trào đòi nam nữ bình quyền, phụ nữ đòi quyền
sống. Những phong trào này một thời đã gây ồn ào và làm cho quần chúng chú ý đến.
Thế nhưng rất nhiều người lại thích hiểu lầm về hai chữ “bình đẳng”. Thực vậy,
họ cho rằng người đờn bà mặc gì, thì người đờn ông cũng có thể bắt chước mà mặc
như vậy. Vì thế ngày nay, chúng ta mới thấy anh đờn ông để tóc dài, đeo bông
tai. Chỉ còn việc mặc váy là chưa được phổ biến sâu rộng, ngoại trừ đờn ông xứ
Tô Cách Lan! Họ cho rằng người đờn ông làm gì thì người đờn bà cũng có thể bắt
chước mà làm như vậy. Vì thế, ngày nay chúng ta mới thấy nhiều chị đờn bà cũng
để đầu trọc, đấu võ Sumô, hút thuốc và uống rượu như điên.
Báo “Công an Thành phố”
có đăng tải về đời sống của “Bà Tư xả láng”. Đây là một chuyện buồn, buồn nẫu cả
gan và thối cả ruột. Chuyện buồn ấy như thế này: Ông bà ngày xưa thường nói:
Phúc đức mới sinh được nhiều con. Nếu cứ theo cách nghĩ của người xưa, thì bà
Trần Kim Nga thật có phước. Bà có tới tám đứa con, lớn nhất ba mươi, nhỏ nhất
lên mười và các con bà thuộc loại chăm chỉ. Bốn con trai lớn đã về quê vợ làm
ăn, hai con trai kế tiếp đi làm phụ hồ và xúc cát mướn. Cô con gái xinh đẹp tên
là Nghi chỉ học đến lớp chín, rồi ở nhà may quần áo đem bán để phụ mẹ và nuôi đứa
em út mới lên mười tuổi. Thế nhưng, bà Nga không biết giữ gìn hạnh phúc trời
cho ấy. Bà sinh tật uống rượu vì buồn chồng mèo mỡ. Năm 1955 khi bà và người chồng
chính thức chia tay, bà bán căn nhà, nơi cả gia đình sinh sống những ngày tháng
đầm ấn nhất, được mười hai lượng vàng. Bà chia cho chồng năm cây để chồng đi với
vợ mới, còn bà thì bắt đầu đến với rượu nhiều hơn để “hóa giải” cơn sầu! Bà uống
hết hiệp này sang hiệp khác và say bí tỉ, vì vậy dân nhậu đặt cho bà biệt danh
“Tư xả láng”.
Từ tháng 6 năm 2001, Tư xả
láng có quan hệ thân thiết như vợ chồng với anh Nguyễn Văn Tuấn, ngụ cùng phường
và cũng là bạn nhậu của Tư xả láng.Tuấn thua bà Nga, tức Tư xả láng, mười bốn
tuổi, hai người thường bỏ nhà đi chơi tới ba, bốn giờ sáng mới về. Mỗi lần say
về, bà ói mửa, rên hừ hử, bắt các con bóp tay chân và chửi mắng thô lỗ. Mọi
chuyện trong gia đình bà phó mặc cho Nghi, để chị em Nghi bữa đói bữa no. Thỉnh
thoảng bà mới tỉnh rượu, gặp lúc lối xóm kêu đi chùi xoong nồi, bà làm và lấy
tiền đi nhậu với Tuấn.Nghe lối xóm đồn ầm ĩ về chuyện hai người, Nghi hỏi mẹ: Mẹ
và chú Tuấn yêu nhau à? Ừ, chú ấy yêu mẹ. Không được đâu, mẹ đã lớn tuổi vả lại
chú ấy kém tuổi mẹ nhiều! Mẹ yêu là để trả thù ba vì ba có vợ nhỏ, bỏ mẹ.
Khuyên nhủ mẹ không được, nhiều lần Nghi gặp Tuấn để can ngăn hãy buông tha mẹ
để mẹ lo cho em của Nghi. Nhưng mặc lời can ngăn, mối quan hệ vẫn tiếp diễn. Bà
Nga bỏ mặc các con ngay cả lúc con trai út sốt xuất huyết nặng, Nghi phải chạy
vạy vay tiền đưa em vào bệnh viện cấp cứu.
Mười lăm giờ ngày
01.4.2001, bà Nga và Tuấn đi chơi ở Châu Đốc về. Bà lên giường nằm một lúc rồi
lại vùng dậy đi nhậu tiếp. Tới 18g30 không thấy mẹ về, Nghi lo mẹ uống nhiều sẽ
bệnh, nên vội đi tìm. Gặp những người cùng nhậu với mẹ, Nghi hỏi: Mẹ con đâu? Mọi
người trả lời: Bà ấy với thằng Tuấn đi rồi. Nghi nháo nhào đi tìm khắp nơi
không thấy, nên chạy đến nhà Tuấn. Gõ cửa phòng mười lăm phút không thấy ai trả
lời, nghi lén leo lên vách nhà nhìn vào thì thấy mẹ đang nằm trên giường của Tuấn.
Gõ thật mạnh một lúc nữa mới thấy Tuấn mở cửa. Nghi đề nghị: Chú Tuấn để cho mẹ
tôi về. Nghi đưa mẹ về nhà và nói: Mẹ nghỉ cho đỡ mệt.
Rồi nhìn cảnh nhà bữa đói
bữa no, đứa em lên mười ngơ ngác tội nghiệp, người mẹ chỉ nhậu về là rên la,
không lo gì cho con, trong lòng Nghi nổi lên ý định giết Tuấn để “giành lại mẹ”.
Lúc hai mươi giờ, Nghi lấy dao Thái Lan dắt vào bụng và tới nhà Tuấn, mời Tuấn
ra quán cà phê nói chuyện. Ra quán, Nghi năn nỉ Tuấn hãy buông tha mẹ để mẹ
chăm lo cho gia đình, chăm lo cho chị em Nghi và nhờ Tuấn khuyên mẹ không nên uống
rượu vì mẹ lớn tuổi. Tuấn nói: Tôi thương rồi, bỏ không được. Vào lúc ấy, bà Nga
lại đi tìm Tuấn. Thấy Tuấn đang ngồi với Nghi, bà định bỏ đi, nhưng Nghi kéo mẹ
lại ngồi giữa Nghi và Tuấn: Đây có mẹ, ba mặt một lời, mẹ nói mẹ có thương chú
Tuấn không? Bà Nga nói: Mẹ không thể lấy
Tuấn vì tuổi tác, nên xem nhau như bạn thôi. Vậy chú Tuấn thì sao? Tôi thương bả,
không thể cưới được, nhưng cũng không thể bỏ được. Quá uất ức, Nghi đập chai nước
ngọt vào đầu Tuấn và đâm Tuấn. Sau đó, Nghi mang dao đến công an phường tự thú.
Chính vì sự hiểu lệch lạc
hai chữ “bình đẳng” mà phát sinh ra những hành động đáng tiếc theo kiểu “ông ăn
chả, bà ăn nem” làm cho gia đình bị tan vỡ. Vậy bình đẳng là như thế nào?
Dĩ nhiên, gã không phủ nhận
những khác biệt giữa đờn bà và đờn ông. Chẳng hạn đàn bà thì yếu, còn đờn ông
thì mạnh. Đàn bà thiên về tình cảm, còn đờn ông thiên về suy luận. Đờn bà có óc
phân tích, còn đờn ông có óc tổng hợp. Tuy nhiên, những khác biệt ấy không phải
là để đối chọi và triệt tiêu lẫn nhau, như ánh sáng và bóng tối, như lửa và nước,
nhưng là để bổ túc và nâng đỡ cho nhau. Vì thế, người ta thường bảo: Cái nhìn
đúng không phải là cái nhìn của anh hay của em, nhưng là cái nhìn của cả hai đứa
chúng mình.
Tiếp đến, gã cũng phải
công nhận rằng trong thân thể có nhiều chi thể và mỗi chi thể có một nhiệm vụ,
nhưng tất cả đều hướng tới một mục đích,
đó là làm cho thân thể được liên tục phát triển. Ngày nọ, hai chân lên tiếng phản
đối cái miệng. Chúng nói: Suốt ngày tôi phải đi rạc cả cẳng, còn ngươi thì chỉ
việc ngồi nhà mát ăn bát vàng. Hai tay cũng lên tiếng: Tôi phải làm lụng quần
quật suốt ngày, còn ngươi thì chỉ việc xơi hết những thành quả do tôi làm ra.
Thế là đôi tay và đôi chân đình công, không đi và cũng không làm nữa, thành thử
cái miệng chẳng có gì để ăn. Nhưng chỉ một ngày, toàn thân ủ rũ như sắp chết đến
nơi. Nhờ sự can thiệp của bộ óc, các chi thể mới hiểu được vai trò cần thiết của
mình và tiếp tục hoạt động lại, làm cho toàn thân được sống và sống dồi dào.
Ngoài xã hội cũng vậy, mỗi
người có một nghề để sinh sống và đóng góp cho đất nước. Nếu mọi người đều cấy
lúa thì lấy ai dệt vải. Nếu mọi người đều dệt vải thì lấy ai xây nhà…Đêm kia, một
thi sĩ nằm mơ. Anh chàng thấy người giúp việc đến và nói: Tôi xin nghỉ việc. Từ
nay, anh phải nấu lấy mà ăn, giặt lấy mà mặc. Người giết heo cũng đến và bảo:
Tôi xin giải nghệ. Từ nay anh tự nuôi lợn, mổ lấy mà ăn. Rồi người trồng cà
phê, người trồng thuốc lá, người cấy lúa… Tất cả đều xin nghỉ việc, khiến anh
chàng lo toát cả mồ hôi, đập mạnh chân xuống giường, thì ra đó chỉ là một giấc
mơ. Thế nhưng, từ giấc mơ này anh chàng nhận ra rằng mình cần đến người khác và
mình mắc nợ người khác nhiều lắm.
Nơi gia đình luật phân
công ấy cũng đã được áp dụng: Người thì kiếm tiến, kẻ thì nấu bếp. Tuy nhiên, tất
cả đều có chung một nỗi băn khoăn lo lắng, đó là góp phần xây dựng cho cuộc sống
được tốt đẹp hơn. Như thế, mỗi người đều có một công việc một bổn phận và
không có công việc nào là thấp hèn, đáng
khinh đáng ghét. Trái lại, công việc nào cũng tốt và cũng cần như nhau. Giống
như khi nói về nghề nghiệp: Nghề nào cũng đáng quí đáng trọng. Không có nghề xấu
mà chỉ có người xấu mà thôi.
Sau khi đã khẳng định như
vậy, gã nhận ra rằng bình đẳng có nghĩa là đờn bà và đờn ông đều bằng nhau về
nhân vị và phải được tôn trọng như nhau. Đờn bà cũng là một con người, cũng có
một phẩm giá và cũng phải được quí mến như đờn ông. Quan niệm “trọng nam khinh
nữ” chuộng nam chê nữ, hay “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” một cậu con
giai là đã có, chứ còn mười cô con gái cũng chỉ là số không, quả là đã xưa rồi
Diễm ơi!
Tiếp đến, bình đẳng còn
có nghĩa là đờn bà và đờn ông đều bằng nhau về quyền lợi cũng như về trách nhiệm.
Cả hai đều phải kề vai sát cánh cộng tác với nhau trong việc xây dựng một cuộc
đời chung, một mái ấm chung. Người chồng ngoài giờ đi làm, cũng phải giúp đỡ
người vợ trong việc “tề gia nội trợ” cũng như giáo dục con cái, Người vợ ngoài
việc bếp múc, cũng phải phụ với người chồng một tay trong việc bươm chải, tìm
tiền kiếm bạc cho gia đình có được một cuộc sống vật chất ấm no. Nhất là khi
người chồng bị sao quả tạ chiếu tướng, rơi vào tình trạng thất nghiệp, ở nhà đuổi
gà cho vợ và ngồi chơi xơi nước, không còn kiếm ra một đồng xu nào sốt, thì người
vợ cũng đừng vì thế mà lên tiếng chì chiết người chồng là hạng vô tài bất tướng,
ăn hại đái nát. Rồi thay lòng đổi dạ.
Lệnh Nữ là con gái của
quan thái thú Hạ Hầu Văn Ninh, được gả cho Tào Văn Thúc, cháu nội của Tào Tháo.
Văn Thúc chẳng may chết sớm, Lệnh Nữ góa chồng. Nàng sợ cha mẹ bắt phải tái
giá, nên cắt cụt tóc, ý muốn ở vậy thờ chồng. Nhưng cha mẹ không nghe, ép phải
lấy chồng. Lệnh Nữ bèn dùng dao cắt đứt hai tai, rồi sang ở với người anh họ của
chồng là Tào Sảng. Khi Tư mã Ý diệt nước Ngụy, giết cả dòng họ Tào, chú của Lệnh
Nữ bắt nàng về Lương Châu định ép gả. Nàng lại tự xẻo mũi, cương quyết ở vậy
cho trọn đạo vợ hiền. Bà con thấy vậy liền bảo: Tất cả họ hàng nhà chồng đều bị
tru diệt, nàng thủ tiết với ai mà phải đày đọa thân xác đến thế? Lệnh Nữ đáp:
Tôi thường nghe người nhân chẳng lấy lẽ thịnh suy mà đổi tiết. Xưa kia họ Tào
còn thế lực, mọi người thảy đều khuất phục để thụ hưởng giàu sang, nay chẳng
may bị tru diệt, tôi há lại hùa theo thiên hạ mà làm điều bất nghĩa hay sao?
Hẳn rằng khi bước vào cuộc
sống hôn nhân, chúng ta đã lớn tiếng đọc lên lời thề hứa rằng: Sẽ giữ lòng
chung thủy với nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng
như lúc khỏe mạnh, để yêu thương và tôn trọng nhau trong suốt cả cuộc đời.
Viết đến đây, gã xin khép
lại chuyện đờn bà và đờn ông.
GÃ SIÊU