ASPIRIN, VIÊN THUỐC ĐA DỤNG
Bác
sĩ Nguyễn Ý-Đức
Con người có nguy cơ mang
những cơn đau do bệnh hoạn kinh niên hoặc do thương tích, giải phẫu. Cơn đau
sau có thể làm giảm đi bằng thuốc gây tê mê. Cơn đau trước như nhức đầu, đau
xương khớp cần sự trị liệu bằng các thuốc giải đau, để người bệnh có thể tiếp tục
sinh hoạt, sản xuất. Aspirin là một trong các thuốc giải đau lâu đời đó.
Tự điển Webster's
Dictionary đã định nghĩa Aspirin như sau: “Một hợp chất kết tinh từ salicylic
acid, có mầu trắng và có công dụng bớt đau nhức và hạ nhiệt độ”. Nhưng trong
tương lai, định nghĩa trên chắc phải kèm thêm một số chữ nữa, chẳng hạn: “ và
có công dụng giúp phòng ngừa các chứng đột tim”. Thực vậy, tin tức y học quan
trọng này đã được công bố trên tạp san Y Học uy tín New England Journal of
Medecine, số ngày 28 tháng Giêng năm 1988.
Và Aspirin sẽ được dùng để
phòng ngừa bệnh chứ không chỉ làm giảm đau nhức như từ khi nó được khám phá ra.
Lịch sử viên thuốc
Từ những năm 400 BC, thời
mà danh y Hippocrates bắt đầu xây dựng nền móng cho y học Tây Phương, vỏ và lá
của loại cây liễu đã được dùng để trị chứng đau nhức và cơn nóng sốt của bệnh
nhân.
Rồi vào một ngày hè năm
1785, vị thầy tu cao tuổi Edward Stone ở một vùng quê hẻo lánh bên Anh, bị một
cơn đau trầm trọng ở các xương khớp và lên cơn sốt rất cao. Do một sự tình cờ,
ông ta ngậm nhai chiếc lá của cây liễu trắng mọc trong vườn. Lá liễu đắng làm
ông ta nhăn mặt, nhưng ít giờ sau, cơn sốt và đau giảm thiểu. Nhà tu hành bèn
truyền bá môn thuốc thiên nhiên này cho nhiều người và ai cũng thấy sự công hiệu
của nó. Ông ta báo cáo khám phá này cho các viên chức Hoàng Gia hay, nhưng chẳng
ai thèm để ý.
Năm 1820, một dược sư người
Thụy sĩ, Johann S. F. Pagenstecher triết từ lá cây Spirea ulmaria một chất acid
mà về sau này được gọi là salicylic acid, có công dụng chống đau nhưng cũng gây
cồn cào bao tử. Năm 1829, một nghiên cứu gia khác khám phá ra hóa chất chống
đau trong liễu là Salicin. Salicin cũng thấy có trong cây meadow sweet.
Năm 1832, một chuyên gia
hóa học người Đức chuyển salicin ra salicylic acid nhưng hợp chất này quá thô
sơ và không dùng để trị bệnh được.
Năm 1853, giáo sư hóa học
Karl Friedrick Gerhardt đã tìm ra cấu trúc phân tử của acid này và cũng cố gắng
làm giảm tính kích thích bao tử của nó, nhưng không đi đến kết quả như ý muốn.
Năm 1897, hóa học gia
Felix Hoffman của công ty Bayer đi tìm một hợp chất để chữa đau nhức của thân
sinh. Ông ta đã tổng hợp và chuyển salicylic acid ra acetylsalicylic acid dưới
dạng ít kích thích hơn. Khám phá này được ca tụng là thuốc chống đau nhức và giảm
nóng sốt rất thần hiệu.
Năm 1899, công ty dược phẩm
Bayer của Đức tung ra thị trường một loại acetylsalicylic acid dưới tên
A-S-Pirin : “A” cho acetyl, “S” cho salicylic “Spir” cho cây Spirea, một loại
cây giống như cây liễu và cũng cho salicin; tiếp vĩ ngữ “In” chỉ dược phẩm.
Hãng bào chế Bayer được tưởng thưởng nhờ khám phá này và độc quyền sản xuất Aspirin
trong 17 năm kế tiếp
Trước thế chiến thứ nhất,
chính phủ Anh sợ nước Đức sẽ ngưng cung cấp Aspirin cho các quốc gia khác, đã đặt
một phần thưởng rất lớn cho ai có thể làm ra thuốc này. Hóa học gia George
Nicholas đã bào chế chất Aspirin và lãnh giải thưởng. Ông ta đã bị hư một mắt
vì nổ ống nghiệm ether trong khi làm việc.
Sau khi đánh bại nước Đức,
Anh quốc chiếm hữu biệt danh Aspirin, công ty Bayer mất quyền sở hữu về tên
cũng như độc quyền sản xuất dược phẩm này. Các viện bào chế khác trên thế giới
tự do sản xuất Aspirin. Aspirin không được viết chữ hoa như trước. Ngày nay
Aspin được tổng hợp từ hóa chất phenol.
Công
dụng trị liệu
Suốt một thời gian dài,
chất liệu của Aspirin được dùng để chống đau nhức và hạ sốt, nhưng chưa có ai
chứng minh được nguyên lý tác dụng của thuốc này. Người ta dùng do kinh nghiệm
lưu truyền, do thấy người khác dùng có hiệu quả thì ta cũng dùng.
Mãi tới năm 1971, bác sĩ
giải phẫu John Vane bên Anh chứng minh rằng Aspirin có một tác dụng quan trọng
trong cơ thể: đó là ảnh hưởng tới sự tổng hợp chất Prostaglandins. Chất này
đóng vai trò quan trọng trong việc cơ thể phản ứng lại với thương tích và nhiễm
độc. Prostaglandin tác dụng trên hệ thần kinh để truyền tín hiệu về cảm giác
đau; nó thúc đẩy các tiểu huyết cầu tụ lại thành máu cục, nó gây ra dấu hiệu
viêm của mô tế bào. Trước đó, năm 1960, một số khoa học gia ở Âu châu chứng
minh rằng Aspirin có công dụng chống lại sự đông đặc của máu. Máu đóng cục là một
trong nhiều nguyên nhân của tai nạn thiếu máu ở tim, ở não bộ.
Ngày nay, có nhiều dữ kiện
cho rằng viêm tế bào là một trong nhiều nguy cơ đưa tới vữa xơ động mạch, bệnh
Alzheimer, các bệnh ung thư. Một số Prostaglandins là thủ phạm gây ra nóng sốt,
đau nhức và xưng xương khớp. Chặn sự sản xuất Protaglandins là ngăn được chứng
bệnh do hậu quả của hóa chất này.
Rồi sau đó, nhiều nghiên
cứu khác xác định giá trị phòng ngừa bệnh tim của Aspirin và còn gợi ý là dược
phẩm này có thể phòng ngừa các bệnh ung thư ruột già, phổi, tụy tạng, noãn sào,
bệnh sa sút trí tuệ và một số bệnh khác của con người như là tiêu diệt siêu vi
khuẩn trong mạch máu
Do khám phá này, Vane được
giải Nobel năm 1982.
Nhờ nghiên cứu của Vane
mà nhiều người nhớ tới báo cáo của Craven vào năm 1956.
Số là vào năm 1950, bác
sĩ Lawrence L. Craven thông báo cho một tạp san y tế nhỏ tại địa phương là, ông
ta đã cho khoảng 400 người mập béo, không vận động cơ thể, mỗi ngày uống hai
viên Aspirin và không một người nào bị quỵ tim (heart attack). Sau đó ông ta
tăng số bệnh nhân lên tới 8000 người và năm 1956 cho hay là không ai bị tai biến
động mạch não, máu đóng cục hoặc bệnh động mạch vành. Nhưng công bố của ông ta
không được ai để ý tới, cho tới khi Vance công bố kết quả nghiên cứu của mình.
Có thời kỳ bác sĩ không
dám cho cho bệnh nhân uống Aspirin trước khi giải phẫu ghép nối động mạch tim
vì sợ băng huyết. Nhưng kết quả mới được công bố tháng 10 năm 2002 trên tạp san
The New England Journal of Medicine cho hay, dùng Aspirin trước khi giải phẫu lại
làm giảm nguy cơ các biến chứng của giải phẫu. Trước đó, năm 1977, giải phẫu
gia Edwin W. Salzman cho hay 75% bệnh nhân của ông ta được thay thế xương hông
đều không bị băng huyết sau khi uống Aspirin.
Năm 1987 bác sĩ chuyên
khoa tim Judith Hsia của Đại học George Washington tuyên bố rằng Aspirin có khả
năng làm tăng tính miễn dịch của cơ thể bằng cách thúc đẩy bạch huyết cầu tăng
gia sản xuất chất interleukin-2 và gamma interferon. Vị bác sĩ này cũng nghiên
cứu để coi xem Aspirin có khả năng ngăn ngừa các bệnh hô hấp do siêu vi khuẩn
gây ra, nhất là ở người cao tuổi mà hệ thống miễn dịch đều suy yếu
Trong bản tin Drug
Bulletin tháng 2 năm 1988, cơ quan FDA Hoa Kỳ thông báo: Có nhiều bằng chứng rằng
Aspirin an toàn và công hiệu trong việc giảm nguy cơ cơn thiếu máu nhất thời của
não bộ (cerebral transient ischemic attacks TIA) hoặc tai biến mạch máu não.
TIA có thể chỉ kéo dài trong vài giây hoặc vài giờ với các triệu chứng như
chóng mặt, mất định hướng, giọng nói ngọng nghịu, mất trí nhớ, mắt mờ. Các cơn
thiếu máu này có thể xẩy ra nhiều lần trong ngày hoặc vài tuần một lần mà hậu
quả là nhiều người có thể rơi vào tình trạng tai biến mavh máu não trong vòng một
năm.
Nghiên cứu công bố trong
New England Journal of Medicine tháng 3 năm 1990 cho hay bệnh nhân bị rung tâm
nhĩ (atrial fibrillation) mà uống một viên Aspirin mỗi ngày đều giảm nguy cơ bị
stroke tới một nửa. Rung tâm nhĩ là chứng bệnh về tim khá phổ thông và nhiều
khi không được chẩn đoán trừ khi phát hiện bằng tâm điện đồ. Nhiều bác sĩ cho
la øAspirin có thể thay thế cho thuốc chống đông máu Warfarin khi người bệnh
không uống được thuốc chống đông máu này.
Trong hội thảo tại
Chicago vào tháng 11 năm 2002, các nghiên cứu gia đã cố gắng thuyết phục cơ
quan FDA chấp thuận dùng Aspirin để ngừa bệnh tim ở người lành mạnh ( phòng ngừa
cấp một, không cho bệnh xuất hiện). Đây là việc làm mà cơ quan này còn dè đặt.
Việc dùng Aspirin 75 tới 325 mg một ngày để ngừa tái phát bệnh tim đã được công
nhận từ lâu.
Bác sĩ Charles Hennekens
là người đã thực hiện cả trăm cuộc nghiên cứu qua theo dõi, quan sát về công dụng
ngừa bệnh của Aspirin. Năm 1988, ông ta công bố là những ai uống Aspirin có thể
giảm nguy cơ heart attack tới 44% so với người không uống. Ông ta cũng kết luận
là Aspirin có tác dụng tốt với một số bệnh kinh niên.
Về tác dụng của Aspirin với
ung thư và bệnh Alzheimer, theo bác sĩ Hennekens, cũng có một vài hứa hẹn,
nhưng cần được nghiên cứu thêm. Theo một số chuyên gia, có thể là do khả năng
chống đóng cục máu mà Aspirin làm tăng lượng máu lưu hành lên não bộ, hoặc tác
dụng chống viêm đã làm chật đường rầy một số diễn biến sớm của bệnh này.
Một số nghiên cứu cho
hay, nam giới trên 60 tuổi uống Aspirin đều đặn có thể giảm nguy cơ ung thư nhiếp
tuyến tới 60%.
Bác sĩ John Baron thuộc Đại
Học Y Khoa Darmouth cho thấy uống một lượng nhỏ Aspirin có thể làm giảm tới 19%
nguy cơ ung thư ruột già và trực tràng.
Một nghiên cứu trong 6
năm do bác sĩ Michael Thun, American Cancer Society, cho hay Aspirin ngăn sự
tăng trưởng của các u bướu nhỏ của ruột, nhưng ông ta không giải thích được tại
sao
Kết quả một nghiên cứu của
American Association for Cancer Resaearch, được công bố vào tháng Tư năm 2002,
cho hay: nhóm bệnh nhân sau ba năm uống 80 mg Aspirin một ngày, chỉ có 38% có
polyps trong ruột so với 47% ở nhóm không uống.
Kết quả nghiên cứu tại Đại
Học Minesota cho hay Aspirin có thể bảo vệ với ung thư tụy tạng. Theo báo cáo
này, phụ nữ uống Aspirin mỗi tuần sẽ giảm nguy cơ ung thư tụy tạng tới 43% so với
phụ nữ không bao giờ uống.
Tại sao Aspirin có thể
ngăn ngừa ung thư? Chưa có trả lời thỏa đáng, nhưng theo Kristin Anderson, có
thể là do tác dụng chống viêm của Aspirin
Với chứng migraine
headache thì các nghiên cứu tại Đại Học Harvard cho hay, trước khi bị chứng đau
đầu này mà uống một viên Aspin thì cơn đau giảm đi rất nhiều.. Lý do là Aspirin
làm giảm sự kết cục của tiểu huyết bào trước mỗi cơn migraine.
Một nghiên cứu vào năm
1999 cho hay phụ nữ uống Aspirin trong khi điều trị để có thể sinh đẻ sẽ có hy
vọng mang thai nhiều gấp đôi người không uống. Uống phân lượng nhỏ Aspirin
trong thời kỳ đầu của thai nghén cũng làm giảm nguy cơ cao huyết áp trong khi
có thai.
Dân ghiền thuốc lá thường
hay bị bệnh viêm nớu răng Nếu họ uống phân lượng nhỏ Aspirin thì bệnh này giảm
đi.
Bệnh nhân tiểu đường thường
hay bị hư võng mạc retina. Aspirin có thể giảm thiểu biến chứng này nhờ Aspirin
chống lại sự đóng cục của máu, máu lưu thông nhiều tới võng mạc hơn.
Năm 1972, dưới sự hướng dẫn
của bác sĩ Fields ở Houston, mười trung tâm y khoa tại Hoa kỳ nghiên cứu với
303 bệnh nhân đã bị TIA. 153 bệnh nhân uống 4 viên aspirin mỗi ngày, số còn lại
được cho uống thuốc vờ. Sau 6 tháng, nhóm thứ nhất có tỷ lệ thấp bị TIA, tai biến
mạch máu não hơn là nhóm thứ hai.
American Heart
Association khuyên nên uống phân lượng nhỏ Aspirin đề phòng ngừa heart attack ở
những ai có 10% nguy cơ bị cơn đột tim này trong vòng 10 năm sắp tới.
Đầu năm 2002, nhóm nghiên
cứu của Berg đã cân nhắc rủi ro và lợi điểm của Aspirin đối với phòng ngừa bệnh
tim, khuyến cáo là thuốc này chỉ nên dùng khi có ít nhất 35 % nguy cơ đột tim
trong vòng năm năm tới. Tuổi tác, huyết áp tâm thu, tỷ lệ total cholesterol/HDL
và yếu tố nguy cơ như hút thuốc lá, tiểu đường. Một người 48 tuổi, huyết áp
bình thường, cholesterol 202, HDL 54 có 2% nguy cơ đột tim trong vòng 5 năm,
không hội đủ điều kiện và không cần uống Aspirin.
Tai biến mạch máu não vẫn
là nguyên nhân tàn tật hàng đầu tại nhiều quốc gia. Riêng nước Mỹ mỗi năm có
trên 700.000 trường hợp, mà 30% nạn nhân sống sót đều bị stroke trở lại trong
vòng năm năm mà tỷ lệ tử vong lên đến 18%.
Công hiệu của Aspirin
trong việc phòng ngừa cấp một đối với thiếu máu cơ tim đã được xác nhận, nhưng
với phòng ngừa cấp một của tai biến động mạch não vì thiếu máu và TIA thì còn
bàn cãi.
Càng nghiên cứu về
Aspirin, người ta thấy Aspirin càng có nhiều công dụng. Bình thường thì một dược
phẩm chỉ có một mục tiêu để hành động. Aspirin lại có nhiều mục tiêu cùng một
lúc. Do đó, nào năm 1999, Aspirin đã có vinh dự được đưa vào National Museum of
American History của viện Smithsonian
Tác dụng phụ không muốn của Aspirin
Không phải ai cũng uống
Aspirin được vì cứ 100 người dùng lâu ngày có thể bị xuất huyết bao tử, đôi khi
từ trầm trọng đến tử vong. Ấy là chưa kể các phản ứng dị ứng khác Theo bác sĩ
Daniel Deyken, Đại Học Y khoa Boston, Aspirin là nguyên nhân khá quan trọng gây
ra xuất huyết ở nước Mỹ. Uống một viên có thể làm chẩy ra một muỗng canh máu ở
bao tử đã bị loét.
Một số điều kiện không
dùng Aspirin được là: có tiền sử mắc bệnh loét bao tử, dị ứng với Aspirin, huyết
áp cao không kiểm soát được, bệnh gan và thận trầm trọng hoặc bệnh xuất huyết.
Trẻ em không nên uống Aspirin vì nhiều quan sát cho thấy thuốc này có thể gây một
bệnh hiếm cho não bộ, đó là hội chứng Reye. Ờ người bệnh đã có rối loạn về đóng
cục máu hoặc dễ bị bầm da đều phải cẩn thận trước khi dùng thuốc Aspirin vì xuất
huyết sẽ trầm trọng hơn.
Thường thường, đa số
chúng ta có thể uống một lượng nhỏ aspirin mỗi ngày mà không ngại rối loạn cho
bao tử. Tuy nhiên nếu ở người mà bao tử nhậy cảm thì nên uống sau khi ăn hoặc
dùng loại Aspirin có bọc đường, vì bọc này ngăn Aspirin khỏi hòa tan trong bao
tử trước khi xuống ruột.
Hiện nay có cả nhiều chục
triệu người uống Aspirin để ngừa bệnh tim.
Các nhà bào chế vội vã
tung ra nhiều loại Aspirin viên với phân lượng nhỏ: 81 mg. Công ty McNeil
Pharmaceuticals sản xuất St Joseph Aspirin. mà một thời được gọi là Baby
Aspirin. Hãng Bayer tung ra loại Bayer Women's Aspirin Plus Calcium vừa để tăng
cường xương cốt vừa bảo vệ trái tim của phái nữ.
Kết luận
Việc sử dụng Aspirin đề
phòng ngừa bệnh tim mạch là vấn đề khá tế nhị, cần được sự hướng dẫn của chuyên
viên y học.
Nhóm Đặc Nhiệm Phòng bệnh
Hoa Kỳ đã có những gợi ý nên theo sau đây về việc sử dụng Aspirin để phòng ngừa
không xẩy ra (primary prevention) bệnh tim mạch với các dẫn chứng hỗ trợ khoa học:
Nhóm đặc nhiệm thành khẩn
gợi ý rằng các thầy thuốc nên thảo luận về khả năng ích lợi và bất lợi của
Aspirin với người lớn có nhiều nguy cơ mắc bệnh động mạch vành ( Coronary Heart
Disease). Nhóm đã thu thập được nhiều bằng chứng rằng Aspirin làm giảm tỷ lệ bệnh
động mạch vành mới phát (incidence) ở người lớn có nhiều nguy cơ bị bệnh tim.
Nhóm cũng có nhiều bằng chứng là Aspirin làm tăng tỷ lệ xuất huyết bao tử và
cũng làm tăng phần nào tỷ lệ tai biến mạch máu não vì xuất huyết.
Trước khi dùng Aspirin
cho mục đích này, cần ước lượng các nguy cơ bệnh tim như tuổi tác, nam hay nữ,
bệnh tiểu đường, cao tổng số cholesterol, thấp cholesterol HDL, cao huyết áp, bệnh
sử thân nhân, và có hút thuốc lá hay không.
Đàn ông trên 40 tuổi, phụ
nữ ở tuổi mãn kinh, giới trẻ mà có yếu tố nguy cơ bệnh động mạch vành đều dễ mắc
bệnh tim thì nên dùng Aspirin.
Phân lượng Aspirin để
phòng ngừa hữu hiệu có thể là 75 mg/ngày, 100 mg/ngày, hoặc 325 mg/mỗi hai
ngày. Phân lượng cao hơn không mang tới ích lợi tốt hơn mà lại tạo ra nhiều tác
dụng phụ không muốn.
Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét