TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO:
TÀ GIÁO, BỘI GIÁO, LY GIÁO
LÀ NHỮNG TỘI GI?
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Hỏi:
Xin cha giải thích rõ thế
nào là Tà giáo, Bội giáo và Ly giáo trong Giáo Hội
Trả lời:
Lịch sử Giáo Hội trên
2000 năm đã trải qua nhiều khó khăn và thách đố đến từ bên trong cũng như từ bên
ngoài. Con Thuyền Phê rô đã nhiều phen bị chao đảo vì sống gió tứ bề nổi lên uy
hiếp. Nhưng ơn Chúa vẫn đủ để giúp đứng vững, và quyền lực của tử thần sẽ không
thắng nổi ” như Chúa Giêsu đã hứa khi Người thiếp lập Giáo Hội trên nền tảng
Tông Đồ và trao quyền
lãnh đạo cho Phêrô. (Mt 16: 18)
là Giáo Hoàng tiên khởi của Giáo Hội. với
sứ mệnh “chăn dắt các chiên của Thầy” (Ga 21:17)
Những khó khăn lớn từ bên
ngoài đưa tới là những cuộc bách đạo ngay từ thế kỷ đầu của Giáo Hội sơ khai
cho đến ngày nay, khiến cho hầu hết các Tông Đồ và rất nhiều giáo hữu đã được
phúc tử đạo, vì đã kiên cường bảo vệ và sống đức tin Kitô Giáo trước mọi thế lực thù nghịch
muốn tiêu diệt
Cụ thể, trên quê hương Việt
Nam, hàng trăm ngàn giáo dân và giáo sĩ đã bỏ mình vì đức tin Kitô Giáo trong
thời các vua Nhà Nguyễn (Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức) nhất là trong thời Tây
Sơn và phong trào Văn Thân vào thế kỷ 19
là thời điểm bách Đạo Công Giáo dữ dội
nhất ở VN. Nhưng nhờ máu các anh hùng tử đạo đổ ra mà hạt giống đức tin đã đâm
bông, phát sinh hoa trái xum xuê ở khắp mọi nơi đặc biệt trên cánh đồng truyền
giáo VN, khiến cho Giáo Hội không những đứng vững mà còn tăng trưởng mạnh mẽ về
mọi mặt cho đến ngày nay.
Ngoài những khó khăn
trên, Giáo Hội-qua thời gian - còn phải
đương đầu với những tà thuyết , như thuyết vô ngộ,( Gnosticism) thuyết tương đối ( Relativism) , thuyết vô thần(
Atheism), thuyết cộng sản (communism),
chũ nghĩa vật chất ( materialism) chủ
nghiã chuộng khoái lạc ( hedonism) chủ nghĩa tục hóa( secularism) cùng với “văn hóa của sự chết” (culture of
death)…tất cả đều thách đố và nguy hại
cho niềm tin Kitô Giao mà Giáo Hội có bổn
phạm phải chống đỡ để hướng dẫn con cái
mình giữ vững đức tin trước mọi thách đô của thế giới tục hóa xưa và nay.
Và để giữ vững đức tin
Kitô Giáo, Giáo Hội còn phải đương đầu với ba tà thuyết xuất phát từ bên trong
, đó là Tà giáo ( heresy) bội giáo (
Apostasy) và Ly giáo ( Schism).
1-Tà giáo là tội gì?
Tà giáo (heresy) hay lạc
giáo tức rối đạo , là chối hay nghi ngờ
một chân lý đức tin đã được
mặc khải mà Giáo Hội
tin và giảng dạy cho con cái mình
phải tin và tuân giữ cho được rỗi linh hồn. Thí dụ tín điều về Thiên Chúa Ba Ngôi, Ngôi
thứ Hai xuông thế làm Người sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng của Chúa
Thánh Thần. Tín điều Đức Mẹ trọn đời đồng
trinh và lên trời cả hồn xác, Tin điều các Thánh Thông Công, tin xác loài người
ngày sau sống lại v.v..
Như vậy, nếu ai chối bỏ
hay hoài nghi một trong những điều phải tin nói trên thì mắc tội rối đạo hay tà
giáo, đặc biệt là những ai dạy
điều gì trái với niềm tin Kitô Giáo.
Giáo luật của Giáo Hội
cũng nói rõ tà giáo hay lạc giáo là “cố chấp phủ nhận hay nghi ngờ một chân lý phải
tin, sau khi được chịu phép Rửa tội …( x
giáo luật số 751)
Trong thời Tân Ước, Thánh
Phao lô đã tố cáo những kẻ mượn danh Tông Đồ để giảng dạy những điều sai lạc về
Đức tin như sau:
“Điều tôi làm, tôi sẽ tiếp
tục làm, để những kẻ muốn có cơ hội tự phu là những người ngang hàng với chúng
tôi, không còn có cơ hội đó nữa. Vì những kẻ đó là tông đồ giả , là thợ gian xảo,
đội lốt
tông đồ của Chúa Kitô.” (2 Cor 11: 12=13)
Thánh Phê rô cũng
đã lưu ý tín hữu về sự
xuất hiện của những tiên tri giả, nhừng
thầy dạy sai lầm, khiến gây hoang mang cho giáo hữu thời sơ khai như sau:
“Trong dân cũng đã xuất
hiện những ngôn sứ giả; giữa anh em cũng
vậy, sẽ có những thầy dạy giả hiêu; đó
là những kẻ sẽ lén lút đưa vào nhừng tà thuyết đẫn tới diệt
vong…” ( 2 Pr 2)
Thánh Gioan cũng nói về nguy cơ có những thầy dạy không thuộc hàng ngũ Tông
Đồ. Đó là các kẻ phản Kitô vì sẽ dạy những điều sai lầm, sai lạc giáo lý của
Chúa:
“Chúng xuất thân từ hàng
ngũ chúng ta. Nhưng không phải là người của chúng ta. Vì nếu là người của chúng
ta, chũng đã ở lại với chúng ta. Nhưng như thế mới rõ: Không phải ai ai cũng là
người của chúng ta. (Ga 2: 19)
Sau đây là một vài điển hình
về những người đã dạy sai lạc giáo lý
đức tin, trong mấy thế kỷ đầu của Giáo Hội. Đó là Arius,Nestorius và
Pelagius :
Arius là một linh mục ở
Alexandria, đã dạy sai lầm là Chúa Giê su không cũng bản thể và uy quyền với Chúa
Cha, khi xuống trần gian làm Con Người , sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Tà thuyết
này đã bị Công Đồng Nicaea năm 325 lên án và bác bỏ vì sai lạc hoàn toàn với
giáo lý của Giáo Hội về Ba Ngôi Thiên Chúa cùng một bản thể ( substance)
và oai
quyền ( dignity) như nhau.
Cùng chia sẻ sai lầm với
Arius là Nestorius, một linh mục khác ở Antioch năm 428 A,D cũng phân biệt thần
tính ( divine nature ) và nhân tính ( human nature) của Chúa Kitô, và dạy rằng Mẹ Maria chỉ là Mẹ về mặt nhân tính của
Chúa Kitô mà thôi.!
Tà thuyết này đã bị Công
Đồng Ephesus lên án năm 431 vì đã dạy sai lầm về hai hai bản tính không hề tách rời nhau của Chúa Kitô như Giáo Hội tin và dạy không sai lầm. Từ đó Công
Đông cũng tuyên bố Mẹ Maria là Mẹ Thiên
Chúa (Theotokos= God bearer) vì là Mẹ thật của Chúa Kitô, là Ngôi Hai cùng bản thể
với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong Mầu Nhiệm Ba Ngôi Một Thiên Chúa. (Holy Trinity=
Three Persons =One God) Từ đó, Giáo Hội
cũng dạy phải kính Lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa trong ngày đầu năm dương lịch
mỗi năm.
Cùng bị lên án với
Nestorius là Pelarius , một luân lý gia nghiêm khắc đã phủ
nhận tội
Nguyên tổ original sin) với lập
luận sai lầm là linh hồn con người do Chúa tạo dựng nên không thể vướng mắc tội
được. Do đó, chỉ những người lớn(
adults) mới cần rửa tội, còn trẻ con thì không cần, vì chúng chưa biết phạm tội.
2- Bội giáo hay chối
Đạo (Apostasy)
Đây là tội rất nghiêm trọng mà một người đã được rửa tội, đã tuyên xưng
đức tin nhưng sau đó đã chối bỏ hoàn toàn đức tin về Chúa và về quyền bính của
Giáo Hội. Tác giả Thư Do Thái đã nói như sau về tội này:
“ Quả thật, những kẻ đã một
lần được chiếu sáng, đã được nếm thử ân huệ bởi trời , đã được thông chia Thánh
Thần, đã được thưởng thức Lời tốt đẹp của Thiên Chúa…những kẻ ấy mà sa ngã, thì
không thể được đổi mới một lần nữa để sám hối ăn năn vì họ đã tự đóng đanh Con
Thiên Chúa vào thập giá một lần nữa và đã công khai sỉ nhục Người…” (Dt 6: 4-8)
Trong thời Cựu Ước, Dân
Do Thái mỗi lần bất trung với Thiên Chúa , họ đã phạm tội này như ngôn sứ Giê
rê mia đã nói rõ như sau:
“Sự gian ác của ngươi phải
sửa trị ngươi
Hành vi phản bội của ngươi sẽ trừng phạt người
Ngươi phải biết, ngươi phải thấy rằng
Lìa bỏ ĐỨC CHÚA, Thiên
Chúa của ngươi
Không còn kính sợ Người,
thì thật là xấu xa và cay đắng” (Gr 2: 19)
Tác giả Sách Giô-suê (Joshua) cũng nói như sau về tội
bội giáo:
“ĐỨC CHÚA, Thần các thần,
chinh Người biết và It-ra-en cũng phải
biết: nếu đó là một cuộc nổi loạn hay là một tội bất trung đối với ĐỨC CHÚA,
thì xin Người đừng cứu chúng tôi hôm nay,” ( Joshua 22: 22)
Thánh Phaolô sau này cũng
cảnh giác các tín hữu về nguy cơ chối Đạo như sau:
“Trước đó phải có hiện tượng chối Đạo, và người
ta sẽ phải thấy xuất hiện người gian
ác, đứa
hư hỏng.” (Tx 2: 3)
Giáo luật của Giáo Hội
cũng nói rõ “ bội giáo là chối bỏ toàn bộ đức tin Kitô giáo.” ( Giáo luật số
751)
Như thế, sau khi được rửa
tội để gia nhập Giáo Hội, ai công khải
chối Đạo, bỏ Đạo, tức chối bỏ mọi niềm tin Kitô Giáo thì mắc tội bội giáo nói trên. (x giáo luật số
751)
3- LY GIÁO (Schism)
Theo ngữ căn (etymology) Hy lạp thì từ “Schism” có nghĩa
xé rách ra. Áp dụng vào đời sống của Giáo Hội, thì từ Schism=Ly giáo là hành vi
cố ý rút ra khỏi mọi hiệp thông
trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo, đặt dưới
quyền chăn dắt của Đức Thánh Cha , là Đại Diện
duy nhất thay mặt ( Vicar) Chúa
Kitô trong Sứ mệnh
lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ với sự hiệp thông và vâng phục trọn vẹn của Giám Mục Đoàn (College of
Bishops).
Lich sử Giáo Hội nghi nhận
có hai cuộc ly giáo nghiêm trọng đã xẩy
ra trong nội bộ Giáo Hội Công Giáo
Phương Tây (Rome) ( Western Schism) và
giữa Giáo Hội Phương Tây với một số Giáo Hội Chính Thống Đông phương ( Eastern Orthodox Churches) được
tóm lược như sau:
A. Đại Ly giáo Tây Phương
(Great Western Schism)
Cuộc ly giáo này kéo dài
từ năm 1378 cho đến năm 1417.
Nguyên nhân chính là do sự
tranh chấp của một số phe phái trong
Giáo Hội về ngôi Giáo Hoàng La Mã, sau
khi Tòa Thánh, dưới triều Đức Giáo Hoàng Gregory XI rời đô
trở lại Roma từ Avignon ( Pháp) năm 1377.
Thời gian này có ba Giáo
Hoàng cũng tranh ngôi Giáo Hoàng La mã. Đó là
UrbanVI ở Rome, Clement
VII ( Pháp) quay trở lại Avignon và
Alexander V do Công Đồng Pisa bầu lên
năm 1409
nhưng một năm sau (1410) thì được thay thế với Gioan XXIII .Nhưng vị
này(GioanXXIII),sau đó, lại bị coi là ngụy
Giáo Hoàng ( antipope) nên sau này , năm
1958 Đức Hông Y Roncali được bầu lên kế
vị Đức Thánh Cha Piô XII qua đời , ngài đã lấy lai danh hiệu Gioan XXIII cho
Giáo Hội.
Trở lại phần trên, Giáo Hội
một lúc đã có ba Giáo Hoàng : Urban
VI ở Rome, Clement VII ở Avignon và
Gioan XXIII ( ngụy giáo hoàng).
Sau nhiều cố gắng điều
đình giữa các phe tranh trấp, cuối cùng Công Đồng Constance ( 1414-18) đã bầu
được Giáo Hoàng mới cho Giáo Hội . Đó là
Hồng Y Oddo Colona, một giáo dân chưa
có chức linh mục và giám mục. Nên sau khi được bầu, ngài đã được chịu chức linh mục và giám mục trước
khi đăng quang để trở thành Giáo Hoàng
Martin V ngày 21 tháng 11 năm 1417. Công Đồng cũng chấp nhận sự từ chức của hai
giáo hoàng, một ở Avignon , một ở Rome và truất phế ngụy giáo hoàng
Gioan XXIII, chấm dứt cuộc ly giáo Tây Phương kéo dài từ năm 1378 đến
1417 mà nguyên nhân chì vì có sự tranh
chấp giữa các phe phái trong nội bộ Giáo Hội Tây Phương ( Rome) về ngôi vị Giáo
Hoàng Rôma..
B- Ly giáo Đông Tây (
Eastern Schism)
Đây là vết thương
to lớn và kéo dài lâu nhất từ năm 1054 cho đến nay mà vẫn chưa có cơ may
hàn gắn.
Đó là cuộc ly giáo giữa
Giáo Hội Công Giáo La Mã phương tây và một số các Giáo Hội Chính Thống Đông
Phương do Thượng Phụ Giáo Chủ ở Contantinople ( Hy Lạp) cầm đầu.Nguyên nhân thì
có nhiều , nhưng điểm tín lý quan trọng
bất hòa là từ ngữ Filioque ( and from the Son) trong Kinh Tin Kinh
Nicene của Giáo Hội Công Giáo tuyên xưng
Chúa Thánh Thần bới Chúa Cha và Chúa Con
mà ra.Về mặt quyền bình, các Giáo Hội Đông Phương hiệp thông với Tòa Thượng Phụ
Constantinople Hy Lạp không công nhận
vai trò Đai Diên Chúa Kitô của Đức Giáo Hoàng La Mã trong việc lãnh đạo Giáo Hội, và đây là điểm khó hòa giải nhất giữa
Contantinople xưa và Istanbul nay ( Thổ Nhĩ Kỳ) với Roma cho đến nay. Hai bên đã ra vạ tuyệt
thông ( anathemas) cho nhau từ năm 1054.
Nhưng vạ này đã được đôi bên tháo gỡ sau cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Thượng Phụ
Giáo Chủ Chính thống Hy lạp là Athenagoras I và Đức Thánh Cha Phaolô VI năm 1966. Hai Giáo
Hội Công Giáo La Mã và Chính Thông Đông Phương đều có chung nguồn gốc Tông Đồ (
Apostolic succession) vì cũng là kết quả
truyền giáo của hai Thánh Phêrô ( ở Tây phương) và Anrê em ngài
ở Đông Phương. Vì thể cả hai Giáo hội đều có những bí tích hữu hiệu như nhau.
Ngoài các Giáo Hội Chính
Thống Đông Phương, còn có các giáo phái Tin Lành ( Protestantism) và Anh giáo ( Anglican
Communion) là những nhóm Kitô Giáo
đã tự ý tách khỏi Giáo Hội Công Giáo La Mã từ thế kỷ
thứ 16 đến nay và cũng chưa trở lại hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo vì những
bất đồng về quyền bính và một vài điểm tín lý, và phụng vụ.
Như vậy, ai đã gia nhập
Giáo Hội qua Phép Rửa mà bỏ Đạo để quay sang
một tôn giáo khác thì mắc tội ly
giáo trên đây, kể cả những nhóm có ý
tách ra khỏi hiệp thông với Giáo Hôi vì lý do riêng của họ.
Tuy nhiên, để tỏ thiện
chí muốn hiệp nhất Kitô Giáo, Giáo Hội
Công Giáo không lên án những anh em ly
khai và luôn hướng về họ với ước mong đạt được sự hiệp nhất( unity) và hiệp
thông trọn vẹn ( full communion) với các anh
em cùng tin Chúa Kitô và giáo lý của Chúa nhưng đang ở bên ngoài Giáo Hội.
Dầu vậy , các gương xấu
như tà giáo, bội giáo và ly giáo vẫn bị
coi là những tội mắc vạ
tuyệt thông tiền kết ( đương nhiên mắc vạ)
dành riêng cho Đức Thánh Cha quyền tháo gỡ.( x. giáo luật số 1364& 1)
Ước mong những giải đáp
trên thỏa mãn câu hỏi đặt ra.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn
Huấn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét