Tết! Tết! Tết!
Thứ năm - 24/01/2019
Bây
giờ là buổi chiều cuối năm, nắng vàng rơi rụng, làm cho những ý nghĩ xám xịt cứ
lãng đãng trong đầu óc gã, khiến cho gã phải thờ dài thườn thượt như người xưa
:
Bây
giờ là buổi chiều cuối năm, nắng vàng rơi rụng, làm cho những ý nghĩ xám xịt cứ
lãng đãng trong đầu óc gã, khiến cho gã phải thờ dài thườn thượt như người xưa
:
-
Ôi nhân sinh là thế ấy,
Như
bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao.
Thời
gian thấm thoát tựa thoi đưa, tựa ngựa hồng qua khung cửa. Một khi đã chắp cánh
bay đi thì chẳng bao giờ trở lại. Nó giống như dòng sông, làm sao có thể chảy
ngược về nguồn. Nó cũng lững lờ trôi, chẳng cần chờ ai mà chẳng cần ai chờ nó :
-
Xoay vần ngày tháng thoáng qua
Năm
kia nào có đợi ta bao giờ.
Chính
trong những ý nghĩ xám xịt ấy, mà gã lan man, tản mạn nghĩ về cái tết.
Vậy
tết là đí gì ?
Trước
câu hỏi này, gã phải vác tự điển ra tra cứu, vì sự hiểu biết của gã về vấn đề
này rất là “lơ tơ lơ mơ”.
Theo
“Việt Nam từ điển” của lê văn Đức, thì tết là ba ngày đầu năm âm lịch. Đồng thời
nó còn chỉ khoảng cách thời gian trước và sau ba ngày này.
Thí
dụ như khi tôi nói chợ tết, thì phải hiểu chợ được nhóm trước tết, chứ sau tết
thì chỉ còn là chợ bán những đồ ế, của thừa mà chớ…
Điều
rắc rối là về ngày. Khi ta bảo hai mươi chín tết phải hiểu là trước. Trái lại,
khi ta nói những ngày còn ở trong… mùng, như mùng bảy, mùng tám, mùng mười, thì
tất ráo cả đều là sau tết.
Ngoài
ra, tết còn chỉ những ngày lễ lớn trong năm, như tết trung thu… Hay chỉ hành động
xách đồ vật đi biếu nhân ngày tết :
-
Mồng một tết cha,
Mồng
hai tết chú
Mồng
ba tết thày.
Trong
khi đó, theo : “Thành ngữ, điển tích, danh nhân từ điển”, của Trịnh văn Thanh,
thì thời gian ăn tết co dãn như cao su và thường được kéo dài ra nhiều hơn. Đó
là tám ngày đầu năm.
Ngày
xưa các cụ cho mỗi ngày thuộc một giống khác nhau. Mùng một thuộc gà, mùng hai
thuộc chó, mùng ba thuộc heo, mùng bốn thuộc dê, mùng năm thuộc trâu, mùng sáu
thuộc ngựa, mùng bảy thuộc người và mùng tám thuộc thóc.
Vì
thế, vào dịp tết người ta thường nghỉ sáu ngày, đến ngày mùng bảy thuộc người,
được kêu là khai hạ, mới bắt đầu làm việc.
Chẳng
hạn như gã, sống bằng nghề cạo giấy, thì ngày mồng bảy thể nào cũng phải bắn một
điếu thuốc lào, thả hồn theo khói, rồi tay cầm bút nguệch ngoạc vài dòng, gọi
là “khai bút” lấy hên cho năm mới.
Riêng
quí vị thất nghiệp, ưa ngáp vặt, ngồi chơi xơi nước, thì còn nghỉ mút chỉ hơn nữa:
-
Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng
hai trồng đậu,
Tháng
ba trồng cà.
Gã
biết một nhóm bè bạn, gồm đúng mười hai tên, được gọi là “thập nhị sứ quân”. Họ
nhậu xoay vòng, cứ ngày mồng bảy âm lịch mỗi tháng là đến “lai rai” tại nhà một
tên, thành thử suốt năm họ đều…ăn tết cả.
Xong
chuyện thứ nhất, bước tới chuyện thứ hai. Vậy trong cả và thiên hạ, người ta ăn
tết ra làm sao ?
Mỗi
lần nghĩ về cái tết, dân khố rách áo ôm như gã thường thở dài ngao ngán, như
người xưa đã diễn tả:
-
Tết đến,
Ông
vải thì mừng, con cháu thì lo.
Đúng
thế, ông vải thì mừøng bởi vì được tưởng nhớ, được cúng vái và nhất là được hưởng…
hương khói.
Trong
khi đó, con cháu thì lo bởi vì phải sắm sửa trăm thức bà giằng.
Còn
hôm nay, gã có thể đổi lại câu nói trên một tí xíu :
-
Tết đến,
Con
nít thì mừng,
Người
lớn thì lo’’.
Thực
vậy, con nít thì mừng bởi vì sẽ được nghỉ học, sẽ được tiền lì xì, sẽ được mặc
quần áo mới, sẽ được ăn thịt và còn nhiều cái khác ‘’sẽ được’’ khác nữa…
Trong
khi đó, người lớn thì lo, lo đến toát cả mồ hôi hột, bởi vì trăm dâu đổ đầu tằm,
bao nhiêu chi phí đều cậy nhờ vào ‘’cái hào bao’’ đang độ rỗng tuếch…
Trước
tết thật lâu, thằng bạn gã đã hối bà xã mua hoặc may cho quí vị con nít, mỗi
nhóc tì một bộ quần áo mới. Vì lúc bấy giờ vải còn rẻ và tiền công chưa mắc.
Hay âm thầm sắm những bộ đồ “sida” đem về giặt ủi y như mới, rồi cất kỹ đến tết
mới phô ra cho chúng.
Ngày
ba mươi tết, bà xã hắn cứ thấp thỏm muốn đi chợ thật sớm, thế là hắn bèn phải vắt
óc tìm đủ một ngàn lẻ một lý do để cản chân bà ta lại, khiến bà ta đi chợ muộn
hơn thường lệ, bởi vì từ giờ ‘’ngọ’’ tức là vào khoảng giữa trưa , thịt thà, đường
mứt và hoa kiểng đều rẻ… chỉ tội nó hơi kém tươi, hơi kém ngon một chút mà
thôi.
Nhưng
nào có can chi, bởi vì hắn lý luận:
-
Của không ngon,
Nhà
nhiều con cũng hết.
-
Phải giả bộ đủng đỉnh cho qua ba ngày tết để lấy vải thưa che mắt thiên hạ, khỏi
nhìn thấy cái rách mát te tua của mình.
Hắn
cũng giống như một cô gái được ông thày bói sờ mu rùa, gieo quẻ mà phán :
-
Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ba
mươi tết có thịt heo trong nhà
Miễn
là có hoa kiểng, có bánh mứt, có thịt thà cá mú để ‘’lên mặt với đời’’ còn phẩm
chất của chúng ra sao thì thôi, kệ bà chúng. Méo mó có hơn không. Thói đời vốn
thường vậy kia mờ :
-
Chí cha chí chát khua giày dép
Đen
thủi đen thui cũng lượt là.
Tính
toán chi li như vậy, hẳn gã sẽ phải phong hắn lên hàng ‘’trùm sò’’ mất thôi.
Nhưng đành chịu vậy. Cái khó bó cái khôn, biết nói sao bi giờ.
Ngoài
những mua sắm cần thiết cho cái mặc, cái ăn, cái uống… cả năm đầu tắt một tối,
thì cũng phải phong lưu ít ra trong ba ngày tết cho bõ ghét.
Rồi
sau đó, lại cúi gầm mặt xuống, tiếp tục kéo cày trả nợ cho cuộc đời mà vẫn cảm
thấy hả lòng hả dạ, mát ruột mát gan.
Phải,
ngoài những chi phí kể trên, là xếp trong gia đình, hắn còn phải dành cả một
ngân khoản, cả một số tiền… khơ khớ, để lì xì.
Ngày
xưa hắn vui mừng vì được lì xì bao nhiêu thì bây giờ hắn lại xót ruột, nhót gan
và ỉu xìu bấy nhiêu vì phải lì xì.
Lì
xì cho con nít còn đơ đỡ một chút. Nhưng con nít thời nay khôn hơn con nít thời
xưa. Qua mặt nó bằng đồng tiền ‘’mới mà nhỏ’’ là không xong, thế nào nó cũng
đòi cho được đồng tiền to, có cũ một tí cũng chẳng nhằm nhò gì.
Phiền
nhất và đau nhất là phải lì xì cho những cặp vợ chồng “đỏ” đi tết mới. Đây cũng
là dip để họ ‘’bù lỗ’’ cho đám cưới.
Theo
phong tục quê gã, đồ lỡi thường là một cặp rượu, một cặp bánh chưng, một ký đường…
hay thế nào thì tùy hỉ, không cần thiết lắm. Đồ lỡi chỉ có tính cách nghi thức
tượng trưng và trình diễn, vì sau đó anh chị được lấy lại và đem sang nhà khác,
miễn sao bày biện cho đẹp mắt và dễ coi.
Riêng
phần khổ chủ, phải mở hào bao lì xì. “Bèo” quá thì không được, bởi vì đây sự
góp vốn đầu đời cho anh chị mới làm ăn. Nhưng “khơ khớ” một chút thì không cáng
đáng nổi. Thử hỏi, dịp tết mà có chừng hai mươi cặp đến tết mới, nhận họ nhận
hàng, thì quá là nguy tai, và… vỡ nợ !
Gã
là kẻ có khiếu ăn, mà chẳng có khiếu nói, bởi vì tinh thần ăn uống được Chúa
ban cho ngay từ lúc lọt lòng mẹ. Do đó, những lời chúc hay những câu “đáp lêã
“, gã thường phải nhẩm trước trong bụng.
Nhớ
lại hồi còn bé, sáng mồng một tết thật là vui. Thày mẹ gã ở nhà để nhận đồ lỡi,
còn anh em gã phải hớn hở vác đồ lỡi đi tết ông chú bà bác, những người ở… vai
trên.
Trước
khi đi, mẹ gã thường gài cho một lời chúc, bắt phải học thuộc lòng như sau :
-
Năm hết tết đến, thày mẹ chúng cháu cho chúng cháu đến tết hai bác, cầu chúc
hai bác trong năm mới được… vân vân và vân vân…
Lớn
lên, gã thường phải “vắt chân lên trán” để phệu ra những lời chúc thật dí dỏm,
vừa để cười thầm một chút vừa để chọc ghẹo thiên hạ cho vui cửa vui nhà.
Thí
dụ năm Canh Mùi, cầm tinh con dê, gã bèn mở miệng :
-
Trước thềm năm mới, xin chúc chị năm con dê… nhiều may mắn.
Hay
:
-Xuân
về, chúc anh năm con… dê nhiều… may mắn.
Chúc
như vậy, thì cứ liệu hồn đấy, không chừng sẽ được ăn đòn hội chợ đến phù cả mỏ
ra. Tuy nhiên, có những câu chúc mà ngày nay xét ra không còn hợp thời nữa.
Thí
dụ :
-
Chúc cho anh chị mới, đầu năm sinh con trai, cuối năm sinh con gái… hay đẻ “tốc
hành” theo kiểu cá cặp, sinh đôi, sinh ba...
Chúc
như vậy là đi ngược lại với đường lối và chủ trương của nhà nước, vì nhan nhản
ngoài đường phố thấy những tấm bích chương với khẩu hiệu :
-
Vợ chồng son hai con là đủ.
-
Dù gái hay trai, hai
con là đủ.
Hơn
nữa, nếu nhiều quá thì vợ chồng trẻ cũng khó mà khan nổi giữa thời buổi gạo
châu củi quế này.
Dịp
tết, ai cũng mong được nhiều may mắn. Người ta kiêng cữ đủ thứ để tránh cái xui
cái xẻo. Người ta lên chùa hái lộc để rước vận may. Người ta đi xem bói, chấm
lá số tử vi để biết được thêm một tí tẹo về hậu vận.
Bởi
vì, như dân Thổ Nhĩ Kì đã bảo :
-
Tương lai giống như người đàn bà mang thai, chẳng hiểu bà ta sẽ đẻ ra con trai
hay con gái.
Câu
danh ngôn này, hôm nay xem ra đã “xưa rồi Diễm ơi”, bởi vì nhờ siêu âm người ta
biết rằng bà xã sẽ sinh con trai hay con gái từ lúc bào thai còn bé tẹo tèo
teo.
Nhưng
tương lai hậu vận thì vẫn còn mù tịt. Gã sẽ treo giải thưởng, còn đắt giá hơn
giải Nobel, cho ai sáng chế ra chiếc máy dò tìm và xác định được tương lai hậu
vận.
Bây
giờ thì gã đành phải mượn lời của Tú Mỡ mà long trọng cầu chúc :
-
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc
nhau trăm tuổi bạc đầu râu
Phen
này ông quyết đi buôn cối
Thiên
hạ bao nhiêu đứa giã trầu.
-
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Đứa
thì mua chức đứa mua quan
Phen
này thì ông quyết đi buôn lọng
Vừa
chửi vừa rao cũng đắt hàng
Còn
rất nhiều chuyện để nói về ngày tết, nhưng cứ lông bông, nói dông nói dài, thì
sợ bị thiên hạ kê ngay tủ đứng vào miệng :
-
Biết rồi, khổ lắm, nói mãi.
Vì
thế, gã xin trở lại với những ý nghĩ xám xịt lúc ban đầu.
Nếu
trong chuyện Kiều, Nguyễn Du đã bảo :
-
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Cùng
theo thể thức ấy, gã liền phệu :
-
Chữ tết liền với chữ chết một vần.
Một
ông thi sĩ nào đó đã viết :
-
Yêu là chết trong lòng một tí.
Còn
gã, gã cũng có thể phệu :
-Tết
là chết trong đời một tí.
Đúng
thế, trong dịp tết này rất nhiều người sẽ chết.
Phải,
họ chết vì rượu bởi vì họ uống tới tình trạng say xỉn, ngoắc cần câu. Rất may
cái chết này chỉ là một cái chết tạm thời, bởi vì người ta sẽ tỉnh lại sau cơn
say.
Có
những chàng trai và cô gái sẽ chết vì đua xe, vì đụng xe hay vì lạng lách trên
đường phố. Rất may cái chết này chỉ dành cho một số ít, đó là những cô chiêu cậu
ấm, ăn no dửng mỡ… mà đứt bóng !
Nhưng
quan trọng hơn vẫn là cái chết chung cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Thực
vậy, một năm mới sắp tới, cũng có nghĩa là một năm cũ sắp qua đi trong dòng chảy
cuộc đời. Cây nến hồng cuộc sống sẽ ngắn lại một chút, bởi vì mỗi cái tết là một
bước tiến gần đến cái chết, để rồi một lúc nào đó, cây nến hồng ấy sẽ phụt tắt.
Tết
là chết trong đời một tí.
Mới
ngày nào, gã còn trẻ trung, khỏe mạnh và yêu đời, thế mà hôm nay đã phải cõng
trên vai một tí tuổi. Tết đến, gã sẽ già hơn một chút.
Với
tí tuổi mang nặng, gã cảm thấy lưng oằn xuống, thân xác giở quẻ với những chứng
bệnh mà gã không ngờ trước. Cuối cùng, thuyền đời sẽ cặp bến, nhưng bến đục hay
bến trong ? Điều đó lệ thuộc vào cuộc sống hiện tại của gã.
Lúc
này gã đã nghĩ trước một điều ước, để trong đêm giao thừa, lỡ có một bà tiên,
hay một cô tiên thì càng tốt, quá bộ đến vỗ vai và bảo :
-Hãy
ước một điều.
Hẳn
gã sẽ trả lời liền tù tì như sau :
-
Xin cho gã được làm con nít mãi mãi.
Hồi
còn bé, gã chỉ mong ước được làm người lớn, để khỏi phải đi học, khỏi phải bị mắng,
khỏi phải bị khua dậy đi lễ… mặc sức la hét om sòm cũng như ngủ nuớng và tết đến
lại còn “sẽ được” nhiều thứ.
Gã
thường hay hỏi ông ngoại :
-
Làm thế nào cho tuổi mới nó vào ?
Ôâng
ngoại xoa đầu gã, rồi mỉm cười và nói :
-
Đêm giao thừa hãy chổng mông lên.
Thằng
bé mê ngủ quên cả chổng mông, thế mà tuổi vẫn vào ào ào và xác vẫn lớn.
Bây
giờ gã mới thấy :
-
Mơ làm người lớn quả là điều dại dột, bởi vì người lớn phải nghĩ nhiều, phải lo
nhiều, phải làm nhiều và nhất là… chóng về chầu trời.
Viết
tới đây, gã bỗng nghe thấy tiếng hát của Hồng Nhung với chiếc răng khểnh vọng
lên từ chiếc “cát xét” của quán nước bên nhà hàng xóm được vặn hết cỡ thợ mộc
điếc cả lỗ nhĩ và rát cả con ráy :
-
Em không muốn làm người lớn đâu anh,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét