VỮNG CHÍ
Sunday,
May 3, 2020
Kiên
định là một đức tính cần thiết tập luyện và duy trì trong cuộc sống, cả đời thường
và tâm linh. Để xây dựng đức tính này, điểm cốt lõi là cần đặt ra mục đích và
quyết tâm hoàn tất, bắt đầu bằng việc xác định ước muốn sống kiên định như thế
nào và hướng tới mục đích đó. Dần dần, khi đã thực sự kiên định, hãy cố gắng
duy trì động lực và tự có trách nhiệm với chính mình. Trong quá trình tập luyện
tính kiên định, cũng rất có thể phải thay đổi suy nghĩ để luôn sống lạc quan và
làm việc một cách hiệu quả.
Con
đường nào cũng có những loại “chông gai” đặc trưng, không là thảm lụa. Vì thế,
rõ ràng rất cần kiên định, nói chung là luôn phải tự khó với chính mình. Chúa
Giêsu đã từng động viên: “Đừng xao xuyến!” (Ga 14:1; Ga 14:27) và Thánh Phêrô
cũng khuyến khích như vậy. (1 Pr 3:14) Điều đó cũng có nghĩa là không hèn hoặc
không sợ hãi. Muốn vậy thì phải can đảm, muốn can đảm thì phải mạnh mẽ, muốn mạnh
mẽ thì phải cầu xin Thiên Chúa Ngôi Ba, Đấng ban sức mạnh – một trong các ơn của
Chúa Thánh Thần.
Chúa
Thánh Thần là Thần Khí, sống là nhờ thần khí: “Thần khí mới làm cho sống, chứ
xác thịt chẳng có ích gì.” (Ga 6:63a) Lời Chúa Giêsu cũng là thần khí và là sự
sống. (Ga 6:63b) Nhưng đôi khi người ta có thể ảo tưởng mà lầm lẫn, cái gì cũng
bảo là “Ý Chúa.” Vì thế, Thánh Gioan Tông Đồ đã khuyên chúng ta PHẢI cảnh giác
và đưa ra cách nhận biết: “Anh em ĐỪNG cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy CÂN
NHẮC các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có NHIỀU NGÔN SỨ
GIẢ lan tràn khắp thế gian. Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của
Thiên Chúa: thần khí nào TUYÊN XƯNG Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên
người phàm thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa; còn thần khí nào KHÔNG TUYÊN XƯNG Đức
Giêsu thì không bởi Thiên Chúa, đó là thần khí của tên phản Kitô. Anh em đã
nghe nói là nó đang tới, và HIỆN NAY nó ở trong thế gian rồi.” (1 Ga 4:1-3) Đơn
giản mà nhiêu khê, dễ mà khó.
Quả
thật, lời cảnh báo của Thánh Gioan rất đáng sợ. Chúng ta cũng đã và đang thấy
nhiều thứ giả, trong đó cũng có đủ loại “người giả” – còn đáng sợ hơn các loại
giả khác. Những điều tương tự cũng đã được Đức Mẹ nhiều lần tiên báo. Do đó, sự
cảnh giác càng cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết, đặc biệt trong thế kỷ XXI
đầy những khó khăn này, càng văn minh càng nhiêu khê. Thời nay mệnh danh là thời
@ – mà đúng là cái chữ @ nó “vòng vo” rắc rối lắm, đôi khi giống như cứ loanh
quanh trong mê cung, không biết lối ra. Và hơn bao giờ hết, người ta càng cần
kiên định hơn.
Dù
đời và đạo, cuộc sống luôn có nhiều thứ khiến chúng ta dao động, chia trí. Thật
vậy, ma quỷ có thiên hình vạn trạng, nó len lỏi vào bất cứ nơi nào, thậm chí ma
quỷ có thể cám dỗ người ta cảm thấy mình đạo đức và thánh thiện. Đó là dạng cám
dỗ rất nguy hiểm, vì là dạng GIẢ DANH GIẢ NGHĨA. Thà rằng nó cám dỗ chúng ta
khô khan, phạm tội, hoặc “quay lưng” lại với Chúa thì chúng ta dễ nhận biết mà
tránh, đằng này nó lại làm cho chúng ta cảm thấy rất gần Chúa, thế mới đáng sợ,
và chúng ta phải rất tỉnh thức. Đừng ảo tưởng, vì rất khó phân biệt, như Thánh
Phaolô nói: “Lạ gì đâu! Vì chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!” (2
Cr 11:14)
Có
một người quen ở Mỹ cho biết rằng em gái của họ lấy chồng là Phật tử, người chồng
này làm cho cô ta bỏ đạo Công giáo và nói xấu Công giáo đủ thứ. Một thanh niên
tại Saigon bỏ đạo Công giáo rồi cạo đầu và quy y, anh ta bảo rằng theo Công
giáo phải giữ nghiêm luật nên “căng” quá, theo Phật giáo “khỏe” hơn nhiều. Còn
tại Đồng Nai, một nữ tu bỏ đạo Công giáo rồi đi lập chùa riêng và làm ni cô trụ
trì. Những người này không chỉ yếu đức tin Công giáo, mà còn thiếu tính kiên định.
Đừng
vội hoang mang khi thấy có những trường hợp như vậy. Đó chỉ là những trường hợp
hiếm hoi. Thật ra họ chỉ bất mãn một vấn đề nào đó vì họ không được thỏa mãn ý
riêng, đồng thời họ là những người “yếu bóng vía” và chẳng hiểu rõ Công giáo,
chỉ là dạng “lý sự cùn,” đầu óc thiển cận hoặc như “ếch ngồi đáy giếng” mà
thôi. Những “ông tổ” của các đạo khác liên quan Kitô giáo cũng vậy, họ chỉ muốn
theo ý riêng mà ly khai khỏi Công giáo. Rồi cũng chẳng đâu vào đâu, nhưng họ vẫn
cố chấp.
Những
người thiển cận hoặc nông cạn mới như vậy, còn những người sâu sắc không như vậy,
bởi vì người ta càng giỏi thì càng nhận biết Thiên Chúa và tin yêu Ngài. Đa số
các bác học đều là những người tin vào Thiên Chúa. Khoảng hơn 40 năm trước,
chính Đức cố TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình (1910-1995) đã rửa tội cho một Thượng tọa
Phật giáo cao niên vào chính đêm Chúa giáng sinh. (Liên quan chuyện “theo đạo”
nên liên tưởng, nhưng tiếc rằng lâu quá rồi nên không còn nhớ tên ông cựu họ
Thích này). Hơn 20 năm trước, có một ni cô chán “ăn chay trường” rồi gia nhập
Công giáo, sau đó cô này lấy chồng là người Công giáo. Vợ chồng họ người Đồng
Nai, nay họ vẫn sống hạnh phúc tại Bình Dương. Và còn rất nhiều những trường hợp
tương tự, từ khắp nơi trên thế giới, không thể kể hết.
Có
điều vô cùng đặc biệt: Không một người nào mà dám nói “tôi là Thiên Chúa” khi lập
đạo, chỉ có Chúa Giêsu mới xác định như vậy. Cũng chẳng có ai làm được những
phép lạ như Ngài đã làm. Và cũng chỉ có Ngài dám nói: “Tôi là con đường, là sự
thật và là sự sống.” (Ga 14:6) Đặc biệt nhất là chẳng có ai bị giết chết mà sống
lại như Ngài. Chỉ vài điều như vậy thôi cũng đủ để chúng ta biết đâu là “chân
lý thật” và đâu là “chân lý giả.” Càng ngày khoa học và khoa khảo cổ càng phát
hiện những điều chính xác như Kinh Thánh đã đề cập. Đó là chứng cớ minh nhiên,
những kẻ phủ nhận chỉ là cố chấp. Và còn các phép lạ Thánh Thể và những lần Đức
Mẹ hiện ra nữa…
Bằng
chứng cụ thể trong sách Công Vụ: Khi nghe ông Phêrô rao giảng việc ăn năn sám hối,
chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội, và nhận được ân huệ
là Thánh Thần, ngay lúc đó đã có KHOẢNG BA NGÀN người theo đạo. (Cv 2:38-41)
Đâu có thể đơn giản mà có số người đông như vậy cùng gia nhập đạo một lúc, cũng
đâu phải họ theo đạo cho vui hoặc có lợi về vật chất, đặc biệt là không ai dụ dỗ
họ theo đạo để được giàu sang, danh vọng,... Và rồi ngày nay, hằng tháng tại
nhiều nhà thờ Công giáo vẫn có những người trưởng thành (chứ không nói trẻ em)
vui mừng lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy. Đó là những bằng chứng hùng hồn, là phép
lạ thực sự mà Chúa Thánh Thần đang tác động không ngừng trong Giáo Hội, Nhiệm
Thể Đức Giêsu Kitô.
Có
những người gia nhập Công giáo không chỉ là người đã thực sự trưởng thành (tâm
sinh lý), mà còn có những người lớn tuổi, họ sống đạo rất tốt với một đức tin
trưởng thành và vững mạnh. Đặc biệt là có những người theo đạo Công giáo rồi đi
tu trở thành tu sĩ hoặc linh mục – một người nổi bật là Lm Thiên Phong Bửu Dưỡng.
[1] Họ đã trưởng thành, chắc chắn không ai có thể “dụ dỗ” được họ nếu họ không
thực sự tin vào Đức-Giêsu-nhập-thể-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh. Ai cảm thấy
còn “đắn đo,” hãy cố gắng giữ vững lòng tin, hãnh diện về Đức Tin Công giáo, và
đừng dao động vì những chuyện không đâu. [2]
Những
người càng giỏi càng tìm hiểu và nhận ra Thiên Chúa. Giáo Hội Công giáo đặt
tiêu chuẩn cao về luân lý, rất cảm thông với người bất đồng ý kiến, nhưng KHÔNG
NHƯỢNG BỘ bất kỳ áp lực nào. Tất cả chúng ta đều là tội nhân, Chúa Giêsu đã thiết
lập bí tích Hòa Giải để tha thứ tội lỗi, để thương xót và ban ân sủng cho chúng
ta, giúp chúng ta sống đời sống luân lý tốt hơn. Công giáo mệnh danh là Đạo Yêu
Thương, vì Thiên Chúa là tình yêu. (1 Ga 4:8 và 16)
Vô
tri bất mộ. Con mắt liên quan lý trí, liên quan đức tin. Kinh Thánh xác định và
lý giải: “Hết những ai không chịu nhìn nhận Thiên Chúa, tự bản chất là những kẻ
ngu si. Từ những vật hữu hình tốt đẹp, chúng không đủ khả năng nhận ra Đấng hiện
hữu, và khi chiêm ngắm bao công trình, chúng cũng không nhận biết Đấng Hoá
Công. Thế mà, lửa với gió, hay làn khí thoảng qua, hay tinh tú bầu trời, hay nước
chảy cuồn cuộn, hay đèn trời thắp sáng, chúng lại coi là thần, là những bậc quản
cai hoàn vũ.” (Kn 13:1-2) Rất rõ ràng, rất rạch ròi!
Ngay
trong thời Giáo Hội sơ khai, khi Chúa Giêsu đã phục sinh và số môn đệ thêm
đông, các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy Lạp kêu trách những tín hữu Do Thái bản
xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ
quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: “Chúng tôi
mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống là điều không phải. Vậy,
thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần
Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi,
chúng tôi sẽ chuyên lo CẦU NGUYỆN và PHỤC VỤ Lời Thiên Chúa.” (Cv 6:2-4)
Trình
thuật Cv 6:5-7 cho biết: “Đề nghị đó được mọi người tán thành. Họ chọn ông
Têphanô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Philípphê,
Pơrôkhôrô, Nicano, Timôn, Pácmêna và ông Nicôla, một người ngoại quê Antiôkhia
đã theo đạo Do Thái. Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu nguyện,
các Tông Đồ đặt tay trên các ông. Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại
Giêrusalem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các
tư tế đón nhận đức tin.” Đó chính là Nhóm Bảy Người, tức là các Phó tế đầu tiên
của Giáo Hội, trong đó có Phó tế Têphanô về sau chịu tử đạo. Không chỉ có Phó tế
Têphannô mà còn biết bao vị tử đạo khác đã xả thần vì danh Đức Giêsu Kitô, ở mọi
nơi và mọi thời.
Niềm
hãnh diện của Kitô hữu “không giống ai” chút nào, đôi khi người ta còn coi đó
là dại dột hoặc ngu xuẩn, nhưng không phải vậy. Hãnh diện gì? Thánh Phaolô cho
biết: “Vinh quang của tôi là Thập Giá của Đức Giêsu Kitô – Mea Gloria Est Crux
Christi.” (Gl 6:14) Chắc chắn không ai và không tôn giáo nào có dạng vinh quang
“ngược đời” như Kitô giáo. Người ta sợ đau khổ, nhưng khi đã cảm nhận được đau
khổ, người ta lại bị đau khổ thu hút. Chắc chắn rằng những người không có niềm
tin Kitô giáo sẽ chẳng bao giờ hiểu được điều đó, thế nên người vô thần bảo tôn
giáo là thuốc phiện đã “ru ngủ” các Kitô hữu. Văn sĩ trào phúng Mark Twain
(1835-1910, Mỹ) nhận định rất thú vị: “Chẳng thà mình không nói để người ta tưởng
mình ngu, còn hơn mở miệng ra để người ta không còn nghi ngờ gì nữa.”
Thực
sự cảm nghiệm sâu sắc về Thiên Chúa, Thánh Vịnh gia hân hoan mời gọi: “Người
công chính, hãy reo hò mừng Chúa, kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen. Tạ ơn
Chúa, gieo vạn tiếng đàn cầm, kính mừng Người, gảy muôn cung đàn sắt.” (Tv
33:1-2) Và rồi không thể lặng im, Thánh Vịnh gia còn giải thích: “Vì lời Chúa
phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều
công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất.” (Tv 33:4-5)
Là
tình yêu, Thiên Chúa thương xót chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân, (Rm
5:8) còn thù nghịch với Ngài, (Rm 5:10) thậm chí Ngài còn chết để cứu độ chúng
ta. Tình yêu thương đó quá lớn lao. Thật vậy, Ngài luôn quan tâm chúng ta:
“Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu
thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn.” (Tv
33:18-19) Và còn hơn vậy, Ngài biết rõ từng người: “Tôi biết chiên của tôi, và
chiên của tôi biết tôi.” (Ga 10:14)
Thế
nhưng có điều đáng quan ngại về chính chúng ta, rất cần xem lại chính mình, như
Thánh Giacôbê đã phân tích: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi
là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ ĐẠO ĐỨC HÃO.” (Gc 1:26) Sở dĩ như vậy vì
chúng ta vốn dĩ là “kẻ xấu.” (Lc 11:13)
Vừa
khuyên nhủ vừa động viên, Thánh Phêrô nói: “Anh em hãy tiến lại gần Đức Kitô,
viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi
là quý giá. Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây
nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế
thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô. Quả thật,
có lời Kinh Thánh chép: Này đây Ta đặt tại Sion một viên đá quý được lựa chọn,
làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng.” (1 Pr 2:4-6)
Lòng thương xót của Thiên Chúa quá đỗi kỳ diệu, chúng ta không thể nào hiểu nổi.
Suốt đời xin tín thác và tạ ơn Ngài!
Về
hạnh phúc của những người được tái sinh bởi Nước và Thánh Thần – các Kitô hữu,
Thánh Phêrô cho biết thêm: “Vậy vinh dự cho anh em là những người tin, còn đối
với những kẻ không tin thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường,
và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin
vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy. Còn anh em, anh em là giống nòi được
tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để
loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào
nơi đầy ánh sáng diệu huyền.” (1 Pr 2:7-9) Có nhiều dạng ơn thiên triệu, nói
theo bình dân là “ơn gọi,” và ơn gọi nào cũng cao cả: Ơn gọi tu trì, ơn gọi kết
hôn, ơn gọi độc thân,... Ơn gọi nào cũng là để hoàn tất sứ mạng theo kế hoạch của
Thiên Chúa. Ngài cũng nói với mỗi Kitô hữu như đã nói với Gia-cóp xưa: “Đừng sợ,
vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng
Ta!” (Is 43:1)
Thật
tuyệt vời, nhưng Thiên Chúa cần chúng ta vững chí tích cực cộng tác, như Chúa
Giêsu đã động viên: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào
Thầy.” (Ga 14:1) Cuộc sống đã và đang chứng tỏ cho chúng ta thấy như vậy, đúng
là chỉ có Thiên Chúa là cứu cách và cùng đích, thiếu Đức Kitô thì chúng ta
không thể làm được gì, dù là điều nhỏ nhoi. (x. Ga 15:5) Chúng ta có hoang mang
hoặc lo sợ thì cũng chẳng “chuyển hóa” được gì, đúng như có lần Chúa Giêsu đã cảnh
báo: “Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng
hay đen được.” (Mt 5:36)
Vì
thế, tín nhân phải vững chí sống theo lời khuyên của Chúa Giêsu: “Đừng xao xuyến!”
Nói theo kiểu nói ngày nay: “Cứ vô tư mà sống!” Tại sao? Bởi vì lo bạc râu, sầu
bạc tóc. Mà có lo cũng chẳng được gì, rồi cái gì đến sẽ đến, lo nhiều chỉ khổ
thêm mà thôi. Chúa Giêsu khuyên “đừng xao xuyến” nghĩa là Ngài bảo chúng ta phải
vững chí tin vào sự TIỀN ĐỊNH và QUAN PHÒNG của Ngài. Thiết tưởng có điều nên
lưu ý: “Không xao xuyến” nghĩa là đừng chạy theo những cái mà người ta cho đó
là “sự lạ,” dạng này thường xuyên được người ta “chú ý,” nếu vậy thì chưa thực
sự tin vào Thiên Chúa, chưa thực sự tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót.
Chúa
Giêsu căn dặn: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với
anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì
Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga
14:2-3) Người đời cũng biết nhận định: “Sinh ký, tử quy” (sống gởi, thác về).
Thế gian chỉ là chuyến lữ hành về Thiên Đàng, như Thánh nữ Catarina đã khuyên:
“Cuộc đời như chiếc cầu, hãy ĐI QUA chứ ĐỪNG DỪNG LẠI trên đó.” Chắc chắn chết
không là “dấu chấm hết” mà là cuộc biến đổi, là “ngưỡng” bước vào sự sống vĩnh
hằng. Thật hạnh phúc cho chúng ta vì đã được chính Chúa Giêsu hứa: “Thầy ở đâu,
anh em cũng ở đó.” Đúng là hạnh phúc của mọi hạnh phúc, hơn cả mức tuyệt vời.
Ngày
xưa, khi Chúa Giêsu bảo: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi.” Ông Tôma đã
ngạc nhiên và hỏi ngay: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao
chúng con biết được đường?” Ngài cười hiền: “Chính Thầy là con đường, là sự thật
và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14:6) Đây là
câu “nổi tiếng” trong Kitô giáo, được trích dẫn rất nhiều, và cũng là niềm hy vọng
chắc chắn của những người thực sự tin vào Con Thiên Chúa, Đấng nhập thể làm người,
chịu chết và Phúc Âm. Rồi Ngài nói thêm: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết
Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.” (Ga 14:7)
Sau
đó, ông Philípphê xin Thầy Giêsu tỏ cho thấy Chúa Cha để được mãn nguyện. Nhưng
Ngài trách ông đã ở với Ngài bao lâu rồi mà còn “hỏi ngớ ngẩn” như vậy. Rồi
Ngài xác định: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.” (Ga 14:9) Chắc chắn đó là cách
hiểu vượt quá tầm hiểu của phàm nhân, nếu chúng ta ở bên Chúa Giêsu hồi đó thì
chúng ta cũng vẫn “ngớ ngẩn” như Tông đồ Philípphê mà thôi, nhưng có lẽ ngày
nay chúng ta cũng chưa hơn người xưa. Buồn thật!
Chính
Chúa Giêsu cũng đang nói với mỗi chúng ta qua lời giải thích với ông Philípphê
và các tông đồ khác: “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở
trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng
Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình Anh em
hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì
hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy thì
người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn
hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.” (Ga 14:10-12) Có vẻ dài mà không dài,
mà là mức độ cần thiết.
Về
tầm quan trọng của Đức Tin, Chúa Giêsu lại nhấn mạnh một lần nữa. Thật vậy, khi
có đủ niềm tín thác vào Thiên Chúa – Đấng giàu lòng thương xót luôn quan phòng
và tiền định cho mỗi người theo ơn gọi riêng (ơn thiên triệu), người ta sẽ
thanh thản và vững chí sống lời khuyên của Thầy Giêsu trong mọi hoàn cảnh.
Thánh Vịnh gia minh định: “Chúa là gia nghiệp đời con.” (Tv 16:5-6) Ước gì mỗi
Kitô hữu chúng ta cũng khả dĩ xác định như vậy!
Lạy Thiên Chúa, xin ban thêm đức tin và lòng can đảm để chúng con
không bị dao động trước mọi nghịch cảnh, ngay cả khi đối diện với kẻ thù, mặc
dù chúng con chỉ là bụi tro dám làm bận mắt Ngài. Xin làm cho chúng con nên
thánh theo kế hoạch mầu nhiệm của Ngài, xin ban Thánh Thần để chúng con vững
chí bước đi trên hành trình đức tin. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô
Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
[1]
Lm Bửu Dưỡng (OP, 1907-1987). Cậu ấm Bửu Dưỡng thuộc dòng dõi hoàng gia triều
Nguyễn, là cháu trực hệ đời thứ năm của vua Minh Mạng. Thân phụ là cụ Ưng
Trình, đại thần Cơ Mật Viện và đại thần Tôn Nhơn Phủ (1936) và Thượng Thư. Thân
mẫu là cụ bà Trần Thị Như Uyển, cũng dòng dõi quan lại cấp Thượng Thư.
Cậu
Bửu Dưỡng là con trai thứ năm. Thiếu thời, cậu học trường Quốc Học Huế, rồi trường
Cao Đẳng Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp, cậu trở về Huế làm thông phán sở Bưu
Chính. Sinh trưởng trong gia đình hoàng tộc và tôn sùng đạo Phật, Bửu Dưỡng
cũng rất ác cảm với Công giáo, nhưng “duyên Trời” ấn định khác.
Thượng
tuần tháng 5-1928, cậu Bửu Dưỡng lên đường ra Quảng Trị, tìm lên vùng núi Phước
Sơn, xin học giáo lý để nhận bí tích Rửa tội và gia nhập dòng Xitô
(Cistercians). Lm Bề Trên Henri Denis (Cố Thuận, người Pháp) trực tiếp dạy giáo
lý. Lễ rửa tội được cử hành ngày lễ Đức Mẹ lên trời, 15-8-1928. Tân tòng Bửu Dưỡng
nhận thánh hiệu Bôniphaxiô (Bonifacius), nghĩa là “bộ mặt đẹp.” Bề Trên Dòng chủ
lễ, bên cạnh là Phó tế Tađêô Lê Hữu Từ (sau đó làm giám mục).
Sau
một năm ở tập viện Xitô Phước Sơn, tu sinh Bửu Dưỡng vì sức khỏe yếu, đau bao tử,
bị chứng tê thấp, lại bị mụt nhọt ở chân, được Bề Trên cho về nhà nghỉ dưỡng bệnh
tại gia đình ở Huế. Trong thời gian này, thầy Bửu Dưỡng có nhiều quan hệ với
Dòng Chúa Cứu Thế, với ý muốn nhập dòng này nhưng không thành…
Trong
khi dịch giùm cho các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế một số bài giảng, thầy được đọc
sách của Thánh TS Tôma Aquinô, thầy say mê triết lý và thần học của vị tiến sĩ
nổi tiếng thuộc Dòng Đa Minh và có ý muốn theo chân ngài trong một dòng tu
chuyên nghiên cứu và thuyết giảng đạo lý Kitô giáo.
Linh
mục Bề Trên Dòng Chúa Cứu Thế giới thiệu thầy với Dòng Đa Minh mới đến Hà Nội lập
dòng và thầy được chấp nhận để thử một thời gian. Mọi sự đều êm xuôi. Thầy Bửu
Dưỡng cảm thấy mình đi đúng hướng và được gởi đi du học tại Pháp ở Dòng Đa Minh
chi nhánh Lyon.
Sau
một năm tập viện, ngày 26-11-1936, tu sinh Bửu Dưỡng là người Việt Nam đầu tiên
của tỉnh Dòng Đa Minh Lyon được tuyên khấn dòng. Mặc dù mụt nhọt ở chân trở nên
trầm trọng, thầy Bửu Dưỡng phải chịu giải phẫu cưa một chân, gắn chân giả. Bề
Trên Dòng vẫn nhận phong chức linh mục cho thầy vì khả năng trí tuệ đặc biệt của
thầy.
Lễ
phong chức được cử hành ngày 2-2-1940. Từ đó, linh mục con dòng cháu giống của
vua chúa triều Nguyễn không còn gì trăn trở băn khoăn mà thẳng đường trực chỉ dấn
thân rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Giêsu cho đến trọn đời. Trong “Cuộc
Hành Trình Của Đời Tôi,” Lm Bửu Dưỡng viết:
Trước
kia tôi rất ghét Kitô giáo và không muốn có một liên hệ nào dù xa dù gần với
các linh mục hay người có đạo. Tôi không bao giờ đọc một cuốn sách báo nào dính
dáng đến đạo Công giáo. Cái ấn tượng ghét đạo đã khiến tôi trở thành cực đoan một
cách vô lý, đến độ mỗi khi nhìn thấy chữ “Thiên Chúa,” tôi cảm thấy khó chịu và
nếu có thể, tôi sửa thành chữ “Trời.” Khi dạy học cho các trẻ em, tôi chống lại
việc dùng chữ Thiên Chúa. Lòng ác cảm đã khiến tôi trở thành điên rồ.
Có
những thời gian tôi cảm thấy bất an trong đời sống, dường như tôi đang trải qua
những cơn khủng hoảng của đời sống, cái tâm trạng này kéo dài trong suốt ba năm
liền… Những lần tôi không giải trí với các bạn trong giờ giải trí, những đêm
dài mất ngủ, những buổi chiều trống rỗng, sau khi nghe vài bản nhạc buồn… Tất cả
những tâm trạng ấy đưa tôi đến việc tự hỏi: “Có phải Kitô giáo là một tôn giáo
thật và tôi phải theo hay không?” Tôi phải theo? Thật là một điều ngoài trí tưởng
tượng. Không bao giờ! Dù nó đúng, nó trật, nó hay… nhưng ta về ta tắm ao ta, dù
trong dù đục ao nhà vẫn hơn.”
Thế
nhưng Ý Chúa nhiệm mầu, một Bửu Dưỡng thù ghét Công giáo đã trở thành một Bửu
Dưỡng yêu mến Công giáo, và trở thành Linh mục Công giáo. Tôi được gặp ngài một
lần, đã được đọc cuốn “Ý Nghĩa Sự Đau Khổ” của ngài và “Công Đồng Vatican III”
do ngài viễn tưởng. Trí óc của ngài đúng là một học giả hiếm có. Lm Bửu Dưỡng
còn là người mở Học viện Minh Đức (Thủ Đức) nổi tiếng một thời trước “sự cố”
1975.
[2]
Xin xem thêm để củng cố Đức Tin Công Giáo:
a.
http://www.thanhlinh.net/node/55782
b.
http://www.tinmung.net/DocGia/ThienChua/2012/Tai-sao-toi-tin-Chua.htm
c.
http://www.ubmvgiadinh.org/article/vì-sao-tôi-theo-đạo-công-giáo
on
May 03, 2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét