CHỨNG THỰC
Monday,
April 13, 2020- Trầm Thiên Thu
Sự
thật mãi mãi là sự thật, và chỉ có sự thật mới có thể giải thoát con người. (Ga
8:32) Về ngữ nghĩa, chữ giải thoát và giải phóng có nghĩa tương tự – theo Phật
giáo là giác ngộ, nhưng thiết nghĩ nên tránh chữ “giải phóng” trong thời đại
ngày nay. Muốn “giải phóng” người khác thì mình phải hơn người khác, kẻ kém cỏi
hơn không thể “giải phóng” người hơn mình – bất cứ lĩnh vực nào.
Bởi
vì cuộc đời có nhiều thứ giả dối nên người ta càng cần sự thật. Muốn biết sự thật
thì phải kiểm chứng xem thực – hư ra sao, không nên nhẹ dạ cả tin trong xã hội
nhiễu nhương ngày nay. Đức tin vẫn cần lý trí. Có lẽ vì vậy mà Tôma tông đồ
chưa tin ngay dù đã nghe nhiều người nói, mà muốn kiểm chứng sự thật về Người
Thầy chí thánh của mình.
Ngôn
ngữ biểu hiện bằng chữ. Mà chữ thì phải có nghĩa. Nghĩa phải rõ ràng, chính
xác, không thể hàm hồ. Và rồi người ta đã có chủ nghĩa thực chứng (positivism).
Đó là học thuyết triết học cho rằng các định đề không thể xác minh được khi đối
chiếu với bằng chứng thực tiễn thì chí ít cũng không thể chấp nhận đó là một bộ
phận của khoa học, nghiêm túc nói thẳng nói thật thì đó là điều vô nghĩa.
Chủ
nghĩa thực chứng là khuynh hướng nhận thức luận của triết học và xã hội học,
cho rằng phương pháp khoa học là cách thức tốt nhất để lý giải các sự kiện của
tự nhiên, xã hội và con người. Khái niệm này được phát triển ở đầu thế kỷ 19 bởi
triết gia và nhà xã hội học Auguste Comte, người Pháp. Từ chủ nghĩa này dẫn tới
chủ nghĩa duy vật và vô thần, cũng dính líu Hội Tam Điểm. Hội này theo chủ
nghĩa duy tâm mơ hồ, tôn kính các thực thể trừu tượng như Tính Nhân Đạo, Khoa Học,
Lý Luận, và muốn loại bỏ Giáo Hội. Thực sự rất nguy hiểm đối với đức tin Công
giáo!
Tên
gọi Hội Tam Điểm (Anh ngữ: Freemasonry, Pháp ngữ: Franc-maçonnerie, nghĩa là “nền
tảng tự do”) dùng để chỉ một tập hợp các hiện tượng lịch sử và xã hội rất khác
nhau tạo dựng từ môi trường hội nhập mà việc tuyển chọn thành viên dựa theo
nguyên tắc bổ sung và các nghi lễ gia nhập có liên quan các ẩn dụ về người thợ
xây đá. Việt ngữ gọi hội này là “Tam Điểm” vì các hội viên người Pháp thường gọi
nhau là frère (sư huynh, sư đệ) hoặc maître (sư phụ), viết tắt F hoặc M và thêm
vào phía sau dấu ba chấm như ba đỉnh hình tam giác đều.
Đầu
thế kỷ 20, các nhà xã hội học Đức (Max Weber và Georg Simmel) đã phản đối thuyết
thực chứng và lập nên trường phái Phản Thực Chứng (Anti-Positivism) trong xã hội
học.
Chúa
Nhật kính Lòng Chúa Thương Xót (LCTX), CN II PS, được Thánh GH Gioan Phaolô II
chính thức thiết lập vào ngày 30-4-2000, ngày tuyên thánh Nữ tu Faustina
Kowalska (1905-1938). Cách gọi khác nhưng chỉ một ý nghĩa. Cũng vậy, Tình Yêu
Chúa, Thánh Tâm Chúa, và LCTX vẫn là một. Chính Chúa Giêsu đã mặc khải cho
Thánh nữ Faustina, vị Tông đồ tiên khởi của LCTX, về ước muốn của Ngài: “Ta muốn
một tấm hình được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật sau Đại lễ Phục Sinh, và Ta
muốn tấm hình đó được tôn kính công khai để mỗi linh hồn đều biết đến tấm hình
đó.” (Nhật Ký, số 341) Và điều đó đã được phổ biến toàn cầu ngày nay, đặc biệt
trong cơn đại dịch corona này, con người càng cần đến LCTX hơn bao giờ hết.
Trong
Nhật Ký, Thánh Faustina cho biết lời hứa của Chúa Giêsu: “Ta muốn ban ơn tha thứ
hoàn toàn cho các linh hồn nào xưng tội và rước lễ trong ngày lễ kính Lòng
Thương Xót của Ta.” (số 1109) Đó là Ơn Toàn Xá mà Người Trộm Lành Dismas
(Dimas) đã được lãnh nhận ngay trước khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng, khoảng
3 giờ chiều ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Cũng từ Giờ Cứu Độ đó, Nguồn Mạch Lòng
Thương Xót của Thiên Chúa đã tuôn trào chan hòa mãi đến muôn đời cho mọi người,
chỉ với một điều kiện đơn giản là thật lòng SÁM HỐI và TIN TƯỞNG vào LCTX – Lạy
Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài.
Trên
đường lữ hành trần gian, đức tin rất quan trọng. Thánh Phaolô nói: “Người ta được
nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy.” (Rm 3:28)
Ngoài Tám Mối Phúc, còn có Mối Phúc đặc biệt liên quan đức tin, có thể gọi là
“mối phúc thứ chín,” do chính Chúa Giêsu xác nhận: “Phúc thay những người không
thấy mà tin!” (Ga 20:29) Và chắc chắn rằng “bất kỳ ai tín thác vào Ngài, Đức-Kitô-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh,
sẽ không phải thất vọng.” (x. Rm 10:11; 1 Pr 2:16) Trong tình trạng “cách ly xã
hội” ngày nay, mỗi người có thể tự kiểm chứng xem đức tin của mình như thế nào
khi không thể cùng nhau tham dự Phụng Vụ với cộng đoàn.
Đức
tin chân chính khác với mê tín dị đoan, mặc dù cũng liên quan niềm tin. Trong
niềm tin lệch lạc có liên quan tử vi. [1] Có người lý luận rằng tử vi là khoa học,
không có tội. (sic!) Coi chừng! Tử vi cũng gọi là “tử vi đẩu số,” một hình thức
bói toán để biết trước vận mệnh con người được xây dựng trên cơ sở triết lý
Kinh Dịch với các thuyết âm dương, ngũ hành, can và chi,… Người ta lập lá số tử
vi với Thiên bàn, Địa bàn và các Cung sao – gọi là “chấm tử vi.” Căn cứ vào giờ,
ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính để lý giải những diễn biến xảy
ra trong đời người. Vậy không phải là dị đoan ư? Miệng leo lẻo nói tin Chúa mà
lòng có tin chưa? Tương lai chúng ta phó thác trong tay Chúa hay tử vi? Tin thật
trong lòng hay tin bằng môi miệng?
Câu
nói đơn giản mà thâm thúy: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.” Đúng vậy, cái “phẩm” quan
trọng hơn cái “lượng.” Rễ càng sâu thì cây càng vững, loại cây nào có rễ ăn nổi
thì dễ đổ khi gặp mưa gió. Vấn đề đức tin cũng vậy, nếu không có chiều sâu thì
chỉ là đức tin trống rỗng, hào nhoáng bề ngoài mà thôi. Một thực tế minh nhiên.
Đề
cập cách sống đức tin, Thánh Faustina cho biết: “Tôi đã thấy rõ thánh ý Chúa
đang và sẽ được thực hiện đến từng chi tiết cuối cùng. Những nỗ lực điên cuồng
của kẻ thù không thể cản trở chi tiết nhỏ nhặt nhất trong những điều Chúa đã tiền
định. Chẳng hề gì nếu có những lần công cuộc dường như hoàn toàn bị tiêu tan;
vì chính khi ấy, công cuộc lại càng được củng cố hơn nữa.” (Nhật Ký, số 1659)
Những cái nhỏ mà quan trọng, vì chính cái nhỏ lại là cái cơ bản thiết yếu.
Thánh
Vịnh gia luôn giữ vững niềm tin: “Dẫu cho hồn xác suy tàn, thì nơi ẩn náu, kỷ
phần lòng con, muôn đời là Chúa cao tôn.” (Tv 73:26) Chỉ người nào có đức tin
son sắt như vậy mới có thể nói như Thánh Phaolô: “Không có gì tách được chúng
ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.”
(Rm 8:39) Tin vào Chúa là tin vào Tình Yêu của Ngài, là tín thác vào Lòng
Thương Xót của Ngài. Đức tin càng trong ngần càng sâu sắc và mạnh mẽ.
Kinh
Thánh kể ngắn gọn nhưng hàm súc: “Ngày xưa, các tín hữu chuyên cần nghe các
Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ
bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều
điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của
chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu.
Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh TẠI
TƯ GIA, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn
dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ.”
(Cv 2:42-47) Trong thời gian này, mọi hoạt động cũng xảy ra “tại tư gia” chứ
không như trước đây – trong đó có việc tham dự Thánh Lễ online. Sinh hoạt gia
đình là cách kiểm chứng đức tin của tín nhân.
Chỉ
một đoạn ngắn gọn nhưng cho thấy rõ nét của một xã hội đại đồng, một cộng đoàn
lý tưởng, luôn đầy ắp tình yêu thương, tình liên đới và sự hiệp nhất. Sống
trong tình yêu thương như vậy là sống trong lòng thương xót, ai cũng thể hiện
lòng thương xót với nhau ở mọi góc độ và mọi cấp độ, không chi li, không so đo,
không tính toán, không phe cánh, không vụ lợi, biết quên mình vì người khác,...
Những ai sống đúng lòng thương xót như vậy thì chắc chắn được Thiên Chúa cứu độ.
Điều
đó được chứng thực bằng những hoạt động nhân đạo trong hoàn cảnh khó khăn giữa
cơn đại nạn này: Máy ATM Gạo, những phần thực phẩm chia sẻ cho những hoàn cảnh
khó khăn,… Câu nói nhẹ nhàng mà thấm thía: “Nếu bạn khó khăn, cứ lấy một phần;
nếu bạn ổn, xin nhường cho người khác.” Nhưng vẫn lấn cấn nỗi buồn khi thấy có
những người còn tham lam, nỡ lòng “cướp” phần của những người nghèo, đánh cắp
lòng nhân đạo của người khác. Họ dư tiền nhưng thiếu (hoặc không có) lòng tự trọng.
Thiên
Chúa bất biến, trước sau như một, mãi mãi là Đấng giàu lòng thương xót: “Muôn
ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118:2-3) Thật vậy, Thiên Chúa muốn mọi
người đều được hưởng Ơn Cứu Độ, không muốn ai phải hư mất. Mỗi chúng ta đều có
chung nhiệm vụ phải loan báo LCTX, chứng tỏ cho mọi người biết Ngài qua cách sống
của mình để tuyên xưng: “Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người
cứu độ tôi.” (Tv 118:14)
Đức
Kitô Giêsu là “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ” nhưng lại “trở nên đá tảng góc tường.”
(Tv 118:22) Đó là công trình vĩ đại vô song của Thiên Chúa. Vì thế, các tín
nhân hiệp nhất đồng thanh: “Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng
hoan hỷ!” (Tv 118:24) Chúa Giêsu đã phục sinh, trao ban cho nhân loại mọi thứ để
có thể đạt tới Cõi Trường Sinh.
Vui
mừng phấn khởi, Thánh Phêrô xưng tụng: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để
nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, để
được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài
này dành ở trên trời cho anh em, là những người, nhờ lòng tin, được Thiên Chúa
quyền năng gìn giữ, hầu được hưởng ơn cứu độ Người đã dành sẵn, và sẽ bày tỏ ra
trong thời sau hết.” (1 Pr 1:3-5) Đó là lời chứng của một người đã trải nghiệm
các cung bậc sống, thực sự là lời chứng đáng tin vì hoàn toàn chính xác. Thánh
Phêrô là nhân chứng sống, để nhờ đó, chúng ta có thể kiểm chứng và chứng thực đức
tin của mình.
Vừa
nhắn nhủ vừa động viên, Thánh Phêrô nói: “Trong thời ấy, anh em sẽ được hân
hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những
thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội,
vàng là của phù vân mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện,
đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh
quang, danh dự.” (1 Pr 1:6-7) Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Qua gian khổ mà vẫn
trung tín thì mới chứng tỏ đức tin sắt son, không nao núng trước mọi cám dỗ.
“Không thấy mà tin” là một Mối Phúc, nhưng miệng nói tín thác vào LCTX mà lại
tin vào tử vi thì hoàn toàn bất xứng. Việc lặp đi lặp lại “lời tín thác” cũng
chỉ như niệm thần chú, nói như vẹt, chứ trong lòng chưa thực sự tin tưởng. Vô
ích mà thôi, bởi vì “đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc 2:17 và
26)
Đúng
như vậy, chính Chúa Giêsu cũng đã minh định: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy:
‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn
của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7:21) Thánh
Phêrô lý giải rạch ròi: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được
giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn
tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con
người.” (1 Pr 1:8-9)
Ga
20:19-31 là trình thuật Tin Mừng quen thuộc nói về tình trạng “cứng lòng tin” của
tông đồ Tôma. Trong một bộ phim hoặc cuốn truyện, nhân vật phản diện thường
không được người ta có cảm tình. Thế nhưng chúng ta quên rằng, chính nhân vật
phản diện đó lại làm “nền” để nhân vật chính diện được nổi bật. Có lẽ Thánh
Tôma cũng là “đích nhắm” của chúng ta mỗi khi nói tới đức tin, nhất là trong
Mùa Phục Sinh hằng năm.
Rất
có thể tông đồ Tôma là người sống thực tế, cần cụ thể, cái gì cũng phải rạch
ròi, không thích mơ hồ hoặc lập lờ nước đôi. Chúng ta cứ chê ông cứng lòng,
nhưng chúng ta cũng vẫn cứng lòng đó thôi, bằng chứng là chúng ta chưa thực sự
tin vào Kinh Thánh và các chứng cớ của Giáo Hội, thế nên đức tin của chúng ta
đôi khi vẫn “nghiêng ngả” Trong khi gặp gian khổ, và chúng ta vẫn “chạy đua” về
các “sự lạ” ở chỗ này hoặc chỗ nọ vì “máu xám” tò mò hoặc hiếu kỳ hơn là “máu đỏ”
đức tin. Như vậy không gọi là cứng lòng tin thì gọi là gì? Đến lượt chúng ta cần
kiểm chứng chính mình ngay trong lúc chống chọi với con virus Vũ Hán giữa “mùa
dịch” này.
Thánh
sử Gioan kể: Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, ngày Chúa Giêsu phục sinh, các
môn đệ ở trong phòng đóng kín cửa vì họ sợ người Do-thái, trong “khoảng sợ hãi”
đó có thể có phần họ “ớn” vì biết đâu họ cũng bị lôi cổ ra hành hình nếu bị
phát hiện. Nếu vậy thì cũng ớn lạnh xương sống lắm. Nhưng bất ngờ Đức Giêsu đến,
đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” Nói xong, Ngài cho các ông xem
tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được gặp lại Thầy, tỏ tường chứ không
nghe kể lại. Rồi Ngài lại nói: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy
thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em
hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm
giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.” Thật tuyệt!
Tuy
nhiên, lúc đó không có mặt tông đồ Tôma, cũng gọi là Điđymô. Sau đó, các môn đệ
khác nói với ông về việc thấy Chúa nhãn tiền, nhưng ông nói chắc nịch: “Nếu tôi
không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không
đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” Coi bộ “căng” dữ nha! Nhưng
không, chuyện đâu còn có đó.
Một
tuần sau, các tông đồ lại quy tụ, lần này có ông Tôma. Các cửa vẫn đóng kín
mít. Ngày xưa họ “cách ly” vì sợ người Do Thái. Ngày nay chúng ta “cách ly” vì
sợ dịch bệnh. Lúc đó Đức Giêsu hiện đến, đứng giữa và chúc bình an cho họ. Rồi
Ngài bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra
mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Ôi chao, ngại hết
sức! Biết rồi còn nói, Thầy kỳ ghê! Ngại lắm, thế nên ông vội sụp lạy và thưa:
“Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Chắc là ông không dám kiểm chứng bằng
tay đâu. Đó cũng là một dạng thú tội. Chúa Giêsu nói với ông: “Vì đã thấy Thầy,
nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29) Và Ngài cũng
đang nói với mỗi tín nhân như vậy trong hoàn cảnh của chúng ta ngày nay.
Sau
khi Chúa Giêsu sống lại, cả hai lần Ngài hiện ra đều vào “ngày thứ nhất trong
tuần,” khi các tông đồ đang tụ họp nhau. Điều đó cho thấy việc thờ phượng Chúa
ngày Chúa Nhật là việc quan trọng trong đời sống tâm linh của các Kitô hữu, đó
cũng là ngày nhận phúc lành bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh trao ban cho các
tín nhân.
Thánh
sử Gioan cho biết thêm: Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các
môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép lại. Còn những điều đã được
chép ở đây là để anh em TIN rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để
anh em tin mà được sự sống nhờ danh Ngài. Về đức tin, Thánh Giacôbê cũng có
cách nói tương tự: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa và có Ngài làm chỗ
nương thân.” (Gr 17:7)
Đức
Kitô Giêsu là Thiên Chúa – Thiên Chúa tình yêu, giàu lòng thương xót, và yêu
thương nhân loại đến cùng. (Ga 13:1) Chính vết thương nơi Thánh Tâm Ngài là ấn
tín của tình yêu vô biên và vô điều kiện, là nơi tuôn trào Máu và Nước trường
sinh, Nguồn Mạch Lòng Thương Xót. Cũng chính Máu và Nước đó đã làm cho viên đội
trưởng Longinô sáng mắt, [2] và rồi ngay tại chân Thập Giá, khi đối diện với
Ông Giêsu trên Núi Sọ vào chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, ông đã phải thú nhận rằng
Chúa Giêsu “là Con Thiên Chúa, là người công chính.” (Mt 27:59; Mc 15:39; Lc
23:47) Sự thật minh nhiên, không thể chối cãi.
Chúa
Giêsu được Chúa Cha trao trọn quyền, thế nên chỉ có thể đến với Chúa Cha qua
Ngài, vì Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất, là con đường, là sự thật và là sự sống.
(Ga 14:6)
Năm
nay, niềm vui phục sinh không tưng bừng bề ngoài, nhưng vẫn rộn rã trong lòng mỗi
tín nhân. Lời Thầy Giêsu nói trước khi Ngài chịu chết và sống lại vẫn âm vang:
“Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha
Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ
cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với
Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14:1-3) Lời này là động lực thúc đẩy
mạnh mẽ giúp chúng ta tiến bước lữ hành cho đến cuối đường đời, khi hoàn tất mọi
sự, đồng thời là lúc chúng ta được gặp và sống với Đức Kitô Phục Sinh đời đời.
Lạy
Thiên Chúa chí thánh hằng thương xót, xin hướng chúng con về phía Ngài, nơi có
sự bình an đích thực; xin giúp chúng con vững tin vào Con Một Ngài, Đấng đã chết
và sống lại để chúng con được sống viên mãn. Cúi xin Ngài gia ân thương xót
chúng con và toàn thế giới. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Phục Sinh, Đấng
Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
[1]
Tử vi là tên một loài hoa tím – TỬ là tím, VI là huyền diệu. Khoa chiêm tinh tướng
mệnh Đông phương dùng loại hoa tím này để chiêm bốc. Người Công giáo không tin,
vì Thiên Chúa đã quan phòng và tiền định mọi sự.
[2]
Đội trưởng Longinus (cổ ngữ Hy Lạp: Λογγῖνος, Longĩnos) kém thị lực, khi ông cầm
ngọn giáo đâm vào Trái Tim Chúa Giêsu, Máu và Nước chảy theo ngọn giáo xuống
tay, ông lấy tay dụi mắt và được sáng mắt, ông đã thật lòng tin Đức Kitô là Con
Thiên Chúa và ông đã nên thánh, Giáo hội có đặt tượng Thánh Longinô ở Đền Thờ
Thánh Phêrô (Rôma).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét