Thứ Hai, 20 tháng 4, 2020

THUYẾT TƯƠNG ĐỐI (RELATIVISM) LÀ GÌ VÀ NGUY HIỂM RA SAO?


THUYẾT  TƯƠNG  ĐỐI (RELATIVISM)  LÀ  GÌ  VÀ  NGUY  HIỂM  RA  SAO?



Xin cha giải đáp ba thắc mắc sau:

1- Thuyết tương đối (relativism) là gì và nguy hại ra sao?

2- Người ly dị có được phép xưng tội và rước Lễ hay không?

3- Tại sao các giáo phải Tin Lành và cả Chính Thống Giáo đều cho linh mục (mục sư Tin Lành) kết hôn trong  khi Giáo Hội Công Giáo lại cấm?

Trả lời:

1- Thuyết tương đối (relativism) là một triết thuyêt (philosophy) chủ yếu phủ nhận mọi tiêu chuẩn hay chân lý tuyệt đối về luân lý, vì cho rằng  mọi luật lệ  cá nhân  hay phổ quát về luân lý chỉ là do con người áp đặt nên  không có cơ sở vững chắc để bắt buộc ai phải tuân giữ.

Thuyết này được chia ra ba loại chính sau đây:

a-Tương đồi về tâm lý (psychological relativism): cho rằng mọi ý thức về luân lý của một người là kết quả đào luyện của người đó trong môi trường gia đình.

Nghĩa là nếu cá nhân chịu ảnh hưởng  tốt trong gia đình thì có quan  niệm tốt về luân lý và ngược lại.

b- Tương đối về xã hội (social relativism): cho rằng mọi ý thức về luân lý là kết quả của việc giáo dục trong môi trường xã hội. Nghĩa là hoàn cảnh xã hội và việc giáo dục cấu tạo nên ý thức luân lý của một người chịu ảnh hưởng đó

c- Tương đối về mặt kinh tế: (Economic relativism) đây là quan điểm của Carl Max, một trong những lý thuyết gia của chủ nghĩa cộng sản (communism) và xã hội chủ nghĩa (sociolism) chủ trương rằng ý thức luân lý của con người chỉ  là kết quả chi phối bởi tình trạng kinh tế của người chịu ảnh hưởng đó.

Giáo Hội , dựa trên niềm tin và lý lẽ hay lý trí (faith and reason) đã hoàn toàn bác bó thuyết tương đối nói trên vì  nó đi ngược lại với giáo lý  và niềm tin có Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối trọn tốt trọn lành . Ngài dựng nên con người có lý trí, có ý muốn tự do (free will) và lương tâm để biết việc thiện phải làm và điều gian ác, xấu sa phải tránh.  Vì thế, Thiên Chúa chỉ  phán đoán riêng  con người về những gì con người làm với lý trí , ý muốn tự do  và lương tâm .

Mặt khác, Giáo Hội cũng tin và dạy không sai lầm rằng phải có chân lý phổ quát về luân lý  (universal truth of  morality) buộc mọi người ở khắp mọi nơi và mọi thời đại phải tuân theo để  con người khác biệt với mọi loài cầm thú chỉ sống với bản năng và không có ý thức gì  về lành dữ. Luật luân lý phổ quát này ngăn cấm những hành động nhân linh( human act)  như  giết người ( trừ trường hợp tự vệ chính đáng) , hiếp dâm, thù nghịch, gian ác,  gian dâm, mãi dâm, ấu dâm (child prostitution) gian tham, bất công, bóc lột, kỳ thị về mầu da,  hành  hạ súc vật…là những sự dữ tự  bản chất  (intrinsic evils) nên không thể biện minh  được  vì bất cứ lý do và hoàn cảnh nào. Nghĩa là không thể lấy lý do giáo dục gia đình hay môi trường xã hội hoặc hoàn cảnh kinh tế để biện minh cho việc giết người, hiếp dâm, bóc lột người khác, thù ghét ai vì mầu da, tiếng nói và nhất là phá thai hay giết thai nhi được. Không có hoàn cảnh nào cho phép làm những sự dữ nói trên theo luân lý Kitôgiáo. Chắc chắn như vậy.

Thánh Phaolô cũng đã liệt kê nhữ ng sự xấu,  xét về mặt luân lý,  là sai trái như sau:

“Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ: đó là dâm bôn, ô uế, phóng đãng , thờ quấy , phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo :  những kẻ làm những điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa..” ( Gl 5: 19-21)

Tóm lại thuyết tương đối là một nguy hại cho niềm tin có luân lý phổ quát buộc con người phải xa tránh những sự  dữ tự bản chất như nói ở trên để làm những sự thiện, sự lành  mưu ích cho phần rỗi của mình và cho người khác.

Nói rõ hơn Giáo Hội lên án thuyết tương đối về luân lý vì nó vi phạm niềm tin có luân lý phổ quát  tuyệt đối mà Thiên Chúa đã in xâu trong lòng mỗi người không phân biệt mầu da, ngôn ngữ và văn hóa. Nghĩa là ai cũng phải hiểu rằng giết người,giết thai nhi,  gian manh trộm cướp, chiến tranh, giệt chủng,  dâm ô  thác loạn ..,là những sự  dữ, sự xấu phải tránh, không được làm  vì bất cứ ý do nào để  khỏi bị Thiên Chúa phán xét và trừng phạt sau khi con người chết đi  và phải ra trước Tòa Chúa để được phán xét về những việc đã làm  khi còn sống với lý trí và ý muốn tự do (free will)cùng  với lương tâm là cơ năng sẽ tố cáo con người về mặt luân lý trước Tòa Chúa..

2-Những người li dị có được xưng tội rước lễ hay không?

Để trả lời âu hỏi này, ta cần phân  biệt hai trường hợp sau đây:

a- Nếu đã li dị ngoài tòa án dân sự mà chưa được tháo gỡ hôn phối (tiêu hôn =annulment) của toà án hôn phối của Giáo phận (Diocesan Tribunal) mà lại sống chung với người khác như  vợ,  chồng thì tạm thời không được lãnh nhận các bí tích Thánh Thể và Hòa giải. Nghĩa là không được xưng tội và rước lễ bao lâu tình trạng hôn phối chưa được giải quyết thỏa đáng theo giáo luật, chứ không theo luật của xã hội vì Giáo Hội không công nhận việc li dị ở ngoài tòa án dân sự, mà chỉ cứu xét xem việc kết hôn của ai đó đã  thành bí tích ngay từ đầu chưa để quyết định cho tiêu hôn hay không.

b- Nhưng nếu sau khi li dị mà không sống chung với ai như vợ, chồng thì không có ngăn trở gì để đi xưng tội và rước Mình Thánh Chúa.

Vậy nếu biết ai rơi vào các trường hợp trên thì xin khuyên bảo họ cho thích hợp.

 3-Tại sao Giáo Hội Công  Giáo không cho giáo sĩ và  tu sĩ kết hôn?

   Các giáo phái Tin Lành, Anh giáo và cả Chính Thống Đông Phương đều không có luật độc thân ( celibacy)  thì  đó là quyền của họ.Riêng  Giáo Hội Chính Thống chỉ chọn giám mục trong số linh mục độc thân và cho phép các giáo sĩ , trước khi lãnh chức linh mục, được tự do chọn kết hôn hay không. Nếu đã không chọn kết hôn ở cấp phó tế, thì sẽ không được kết hôn sau khi làm linh mục. Vì thế, trong hàng linh mục Chính Thống có hai thành phần kết hôn và không kết hôn.Chỉ có giám mục buộc  phải  độc  thân mà thôi.

Riêng Giáo Hội Công Giáo, thì luật độc thân mới chỉ có từ thế kỷ thứ 11 trở lại đây thôi. Trước đó,  trong ba thế kỷ đầu sau ngày Chúa Giêsu về Trời, tuy không có luật rõ rệt , nhưng đa số các  giáo sĩ  ( giám mục và linh mục)  đều tự nguyện sống khiết tịnh  ( continence, chastity).  Mãi sau năm 305AD, Công Đồng Elvira và Công Đồng  Rôma năm 386 và hai Công Đồng  nữa họp ở  Carthage,  đã đưa đến khuyến cáo  giám mục và  linh mục phải sống  khiết tịnh. Nhưng mãi sau thế kỷ 11, dưới thời cố Giáo Hoàng  Gregory VII ( 1073- 85) luật độc thân ( celibacy) mới chính thức được áp dụng cho đến nay.

Nhưng phải nói rõ là luật độc thân áp dụng cho hàng giáo sĩ, tu sĩ Công giáo không phải là luật của Chúa mà là của Giáo Hôi đặt ra vì lợi ích cho sứ vụ ( ministry) phục vụ của Giáo Hội hầu mang  lợi ích thiêng liêng cho dân Chúa được trao phó cho mình , cụ thể là cho các giám mục và linh mục coi sóc, dẫn dắt và thánh hóa với các Bí tích. Giáo Hội , khi ban luật độc thân này, chắc  đã đọc  kỹ lời Chúa Giêsu trả lời  cho các môn đệ trong Matthêu 19: 11-12  như sau:

     “không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu, mới hiểu. Quả vậy, có những người là hoạn nhân vì từ lòng mẹ sinh ra đã như thế. Có những người là hoạn nhân vì bị người ta hoạn. Và có những người  là hoạn nhân do họ  tự ý sống như thế vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu.”

         Thánh Phaolô  cũng  khuyến khích  ý nghĩa  và giá trị  sống  độc thân như sau:

  “ Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời : họ tìm cách làm đẹp lòng vợ. Như thế họ bị chia đôi. ( 1 Cor 7: 32- 34).

Tóm lại, kỷ luật độc thân cho hàng giáo sĩ và tu sĩ Công giáo được áp dụng vì lợi ích cho sứ vụ rao giảng, dạy dỗ và làm chứng cho Tin Mừng của hàng giáo sĩ, tu sĩ. Đây là sự khôn ngoan của Giáo Hội và cũng thể hiện ước muốn hy sinh  tự nguyện  sống khiết tịnh  vì Nước Trời của hàng giáo sĩ, tu sĩ,  căn cứ trên chính lời của Chúa Kitô nói trên đậy.

Chúng ta cầu xin và hy vọng Giáo Hội sẽ không bỏ luật độc thân để chiều theo đòi hỏi của thời đại tục hóa ngày nay.Nếu chiều theo, thì còn phải cho cả phụ nữ có chồng làm linh mục nữa, và như vậy Giáo Hội  sẽ tự mâu thuẫn với chính mình  và làm mất niềm tin của con cái muốn trung thành với những  truyền thống tốt đẹp được lưu truyền lại  từ các Thánh Tông Đồ.

 Giáo Hội không phải là một cơ  chế chính trị, mà phải thay đổi theo trào lưu của thời đai. Ngược lại, Giáo Hội là một  định chế  thiêng liêng ( sacred Institution) được Chúa Kitô thiết lập trên nền tảng các Tông Đồ, với sứ mệnh cao cả là tiếp tục  Sứ Mệnh cứu chuộc  của Chúa Kitô cho đến ngày mãn thời gian. Và để trung thành với Sứ Mệnh đó, Giáo Hội phải có can đảm đi ngược dòng thác lũ của thời đại với những chủ thuyết vô thần, vô luân,  tôn thờ vật chất, chủ nghĩa tương đối và tục hóa (Securalism) đang bành trướng  ở khắp nơi để lôi kéo con người vào thảm họa chối  bỏ Thiên Chúa là Nguồn mạch phát sinh mọi sự tốt lành, thiện hảo, hạnh phúc  và bình an. Chúa nói: “Ai có tai nghe thì nghe.”( Mt 13: 43; Mc  7: 16; Lc 14: 35)

Ước mong những giải đáp trên thỏa mãn những câu hỏi đặt ra.Amen

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét