Thứ Năm, 2 tháng 4, 2020

Ý NGHĨA CUỘC ĐỜI

Apr 5, 2020 - Chuá  nhật  VI  Muà  Chay  năm  A - Lễ  Lá
Ý  NGHĨA  CUỘC  ĐỜI
Monday, March 30, 2020





http://thanhlinh.net/node/137132

Lá Biếc Cùng Lá Xanh Vẫy Chào Chúa
Người Già Với Người Trẻ Mừng Đón Vua

Cuộc đời không là cuộc dạo chơi, mà là cuộc đấu tranh – khó nhất là chiến đấu với chính mình, vượt qua “cái tôi” tồi tệ của mình. Và người ta vẫn nói rằng “đời là bể khổ.” Khổ đủ thứ, khổ mọi chiều – ngang, dọc, trên, dưới, cao, thấp, dài, ngắn.
Người ta chỉ thở dài chứ không thở ngắn. Thở dài thườn thượt vì khổ, biết là khổ mà chẳng ai định nghĩa được thế nào là khổ một cách chính xác và thỏa mãn nhất. Theo cách tương đối, có thể tạm hiểu với công thức giản lược: Đau khổ = Ưu sầu + Nước mắt. Tất nhiên phải “trừ” loại nước mắt vui mừng, dù hai loại nước mắt đều có vị mặn. Người ta dễ dàng lấy vạt áo lau khô những “giọt mặn” rỉ ra từ đôi mắt, nhưng rất khó xóa “vết mặn” khỏi trái tim mình. Thật vậy, sướng hay khổ còn do mỗi người có khái niệm riêng. Có những triết lý dễ hiểu, có những triết lý khó hiểu, thậm chí là không thể hiểu: Triết lý sống động của Thập Giá. Đó cũng là loại triết lý của sự đau khổ rất đặc biệt.
Chân phước Charles de Foucauld phân tích chí lý: “Trên thế giới đau thương này có một niềm vui mà các thánh và các thiên thần trên thiên đàng không được hưởng – đó là được cùng đau khổ với người yêu dấu của chúng ta. Dù cuộc sống có gian truân đến đâu, chuỗi ngày thê lương của chúng ta có lê thê đến mấy,… chúng ta cũng đừng bao giờ rời xa chân Thập Giá trước khi Chúa muốn. Thầy Chí Thánh thật nhân lành đã cho chúng ta, những tâm hồn yêu mến Thập Giá, được cảm nghiệm sự ngọt ngào của nó, nếu không phải luôn luôn, thì ít ra là vẻ đẹp và sự cần thiết của nó.”
Là con người, chắc chắn chẳng ai chờ đợi niềm đau nỗi khổ, thế nhưng đau khổ vẫn luôn có giá trị tích cực mà chúng ta phải cố gắng hiểu suốt cả đời. Đại văn hào Victor Hugo nhận xét: “Đau khổ cũng như hoa quả. Chúa không khiến nó mọc lên trên những cành quá yếu ớt để chịu nổi nó.” Còn Elbert Hubbard nói: “Nếu bạn đau khổ, hãy cảm ơn trời! Vì đó là dấu hiệu chắc chắn cho thấy bạn đang sống.” Ý tưởng thâm thúy. Chính đau khổ lại khiến người ta nên khôn, một sự thật vô cùng kỳ lạ!
Cuộc sống đời thường cho thấy rằng những con người có cách sống tốt đẹp là những người từng bị thất bại, từng đau khổ, từng tranh đấu, từng mất mát, và họ đã tìm được con đường ra khỏi vực sâu, thoát khỏi đường hầm. Những con người này có lòng cảm kích, sự nhạy cảm và thấu hiểu đối với cuộc đời, chính cuộc đời đã làm cho họ biết cảm thông, biết quan tâm chia sẻ và yêu thương sâu sắc. Rõ ràng không phải tự nhiên mà có, nhưng phải phấn đấu không ngừng – tức là gian nan, vất vả, đau khổ,...
Quả thật là kỳ diệu đối với triết lý đau khổ. Cái xui có sần sùi nhưng là cái bùi nhùi chùi bóng cuộc đời. Kinh Thánh cho biết rằng hung tin dồn dập, nhưng ông Gióp vẫn bình tĩnh. Ông trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và cầu nguyện: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, con sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21) Mặc dù đau khổ đến tột cùng, nhưng “ông Gióp KHÔNG hề phạm tội cũng KHÔNG buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa.” (G 1:22) Hai cái “không” của ông thật tuyệt vời. Ai hiểu được như vậy thì cuộc đời sẽ thanh thản, bình an, bình lặng nhưng êm đềm.
Như để tự an ủi để vượt qua đau khổ, người ta thường nói: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn le lói suốt trăm năm.” Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu theo góc độ nào đó về Chúa Giêsu, Đấng nhập thể làm người. Kinh Thánh cho biết cuộc đời Ngài đầy đau khổ ê chề, thế nhưng Ngài vẫn có được khoảnh khắc huy hoàng là được thiên hạ tung hô lúc Ngài cưỡi trên lưng lừa khi vào Thành Giêrusalem. Và giờ của Ngài đã đến!
Hôm nay, Giáo Hội sử dụng bài ca thứ ba trong các Bài Ca của Người Tôi Trung, tuy ngắn gọn mà súc tích: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.” (Is 50:4-5) Vẫn giữ được lòng trung tín trong lúc đau khổ như vậy thì không dễ chút nào, đức tin phải thực sự mạnh mẽ lắm.
Trong đại dịch hiện nay, mỗi chúng ta đều cần có đức tin như vậy để không bị chi phối, không bị hoảng loạn, biết sống liên đới và nâng đỡ nhau, không suy diễn lệch lạc gây ảnh hưởng xấu tới đức tin chân chính Kitô giáo.
Có điều kỳ diệu là nỗi đau khổ không làm người ta yếu đuối mà lại làm tăng sức chịu đựng: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” (Is 50:6-7) Thật là kỳ diệu, những người không có niềm tin Kitô giáo chắc chắn không thể hiểu được, và sẽ cho những người chịu đau khổ là những người điên khùng.
Trong khi đau khổ tột cùng, Thánh Vịnh gia đã thốt lên: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!” (Tv 22:7-9) Thách thức quá lớn, khoảng cô đơn quá rộng, thật ê chề nhục nhã quá đi!
Người ta cảm nhận chí lý: “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí.” Điều đó như một quy luật muôn thuở, giống như định mệnh vậy. Đau khổ này chồng lên đau khổ khác: “Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn. Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa.” (Tv 22:17-20) Không còn gì để mất nữa, khốn khổ tột cùng, lo sợ run cả người, nguyện cầu không ngừng, thế nhưng vẫn chẳng nghe động tĩnh gì. Trong cơn đại dịch hiện nay, cả thế giới cũng đang có cảm giác như vậy!
Tuy nhiên, dù có thế nào thì vẫn một niềm tín thác, vẫn xưng tụng Thiên Chúa, vì đó là mục đích sống của tín nhân: “Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương. Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Giacóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Israel tất cả, nào một dạ khiếp oai!” (Tv 22:23-24) Và chẳng có gì tách tín nhân ra khỏi Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô. (Rm 8:39)
Sống nhờ hơi thở cầu nguyện. Cầu nguyện cũng là dưỡng chất tâm linh. Cầu nguyện mà không nghe động tĩnh gì, đó là dấu chỉ chắc chắn rằng Chúa đang xót thương. Lại thêm một điều kỳ diệu. Muốn hiểu được triết lý này thì cần phải có niềm tin Kitô giáo. Với người ngoài Kitô giáo hoặc vô thần, họ cho đó là “bùa mê, thuốc lú,” ai tin như vậy đều bị họ coi là dại dột, là dốt nát, là ngu xuẩn hoặc điên rồ. Nhưng cái dại đó lại là cái khôn kỳ diệu.
Thật vậy, Thánh Phaolô phân tích: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.” (Pl 2:6-7) Chúa Giêsu không chỉ tự nguyện như vậy, mà còn hơn thế nữa: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2:8) Đúng là mầu nhiệm, do đó mà khó hiểu. Tuy nhiên, “khó hiểu” chứ không phải là “không thể hiểu.” Nghĩa là vẫn có thể hiểu – hiểu bằng đức tin và đức mến.
Dù là dạng tình yêu nào thì cũng cần “chất” đau khổ, có đau khổ mới chứng tỏ tình yêu chân chính. Đại văn hào Victor Hugo nói: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa; chết vì yêu là sống trong tình yêu.” Chết mà là sống. Người đời mà còn nhận định được như vậy thì kỳ lạ thật!
Sự đau khổ luôn có giá trị nhất định và thực sự độc đáo. Gian nan dẫn đến thành công, đau khổ đưa tới vinh quang. Tương tự, sự chết là đường dẫn tới sự sống, là cửa ngõ mở lối vào cõi trường sinh. Thánh Phaolô kết luận: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa.” (Pl 2:9-11) Ai tin nhận Ngài sẽ được sống đời đời. (Ga 3:16; Ga 6:47)

Khi Chúa Giêsu hiển hách vào Thành Giêrusalem cũng là lúc Ngài bắt đầu đi vào cõi đau khổ, rồi từ “biên giới” đầy gian khổ là Vườn Dầu tiếp tục dẫn tới “cửa ải” sự chết là Núi Sọ, thế nhưng từ Núi Sọ “chết chóc” ấy lại dẫn tới cửa sự sống là Nước Trời. Một bản đồ lòng vòng như mê cung nhưng lại thú vị và hấp dẫn, có biết bao người mong được sử dụng loại bản đồ này, và nhiều người đã đạt được mục đích – các thánh nhân, đặc biệt là các vị tử đạo. Lối hẹp mà hóa đường rộng, vị cay đắng trở thành vị ngọt ngào.
Dù vui hay buồn, dù tốt hay xấu, chuyện gì đến cũng sẽ đến. Đó là điều tất yếu của cuộc đời. Ngày Chúa Giêsu được người ta tiếp đón và chúc tụng nhưng Giáo Hội sử dụng bài thương khó – bộ phim trĩu nặng u buồn.
Một người trong Nhóm Mười Hai, Giuđa Ítcariốt, đành lòng bán Thầy mình để lấy một số tiền. Từ lúc đó, gã cố tìm dịp thuận tiện để nộp Thầy mình. Vật chất và tiền bạc có ma lực cực mạnh khiến người ta mù quáng, không còn đủ lý trí sáng suốt để phân biệt đâu là phải – trái. Ma lực đó khó cưỡng lại, nên nhiều người chết vì nó!
Vào ngày thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giêsu xem Ngài muốn họ dọn Tiệc Vượt Qua ở đâu. Ngài dặn dò họ kỹ lưỡng từng chi tiết.
Hàng hôn buông xuống. Thời điểm quan trọng. Đức Giêsu vào bàn tiệc với mười hai môn đệ. Đang tiệc vui, bỗng dưng Ngài bảo có người sẽ nộp Ngài. Các môn đệ ngạc nhiên và buồn lắm, họ hỏi nhau để biết ai là thủ phạm. Không ai biết. Ngài nói: “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!” (Mt 26:23-24) Giuđa chột dạ nhưng vẫn giả nai: “Thầy ơi, chẳng lẽ con sao?” Và Ngài xác nhận là đúng, không sai!
Cũng trong dạ tiệc đó, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy.” (Mt 26:26) Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội.” (Mt 26:27-28) Đây là giây phút linh thiêng và xúc động, nhưng lại có nỗi buồn khi Ngài bảo: “Từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy.” (Mt 26:29) Buồn thật. Và nỗi buồn đó như đang thấm vào mỗi chúng ta trong đại dịch Corona này!
Hát thánh vịnh xong, Thầy trò cùng ra núi Ôliu. Bấy giờ Đức Giêsu nói với các ông về nhiều điều cần thiết, vừa cảnh báo vừa trăn trối. Nghe Thầy nói đích danh mình là sẽ chối Thầy ba lần. Ông Phêrô nói chắc: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” (Mt 26:35) Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy. Nhưng rồi điều gì đến vẫn cứ đến. Sự thật là sự thật, và lời tiên báo cũng ứng nghiệm.
Bước vào Vườn Dầu – Ghếtsêmani, Ngài bảo mọi người ở lại, chỉ dẫn theo Phêrô và hai người con ông Dêbêđê đi theo. Ngài bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến cực độ nên phải thốt lên: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy.” (Mt 26:38) Ngài đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26:39) Nhân tính thật yếu đuối, nhưng Ngài vẫn quyết tuân phục Ý Cha cho đến cùng, không theo ý riêng.
Khi trở lại chỗ ba đệ tử, Ngài thấy họ ngủ say, và Ngài nói: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? Anh em hãy CANH THỨC và CẦU NGUYỆN, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” (Mt 26:40-41) Cuộc chiến tâm linh thật khó khăn, nhưng không thể không chiến đấu.
Nói xong, Ngài lại đi cầu nguyện lần thứ hai: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha.” (Mt 26:42) Rồi Ngài quay lại, thấy các môn đệ vẫn đang ngon giấc, mắt họ nặng trĩu. Có lẽ họ thấm mệt vì có chút men và trời đã quá khuya. Phàm nhân là thế. Ngài để cho các ông ngủ mà đi cầu nguyện lần thứ ba, cũng với lời như trước. Rồi Ngài đến chỗ các môn đệ, đúng lúc kẻ nộp Ngài vừa tới. Giờ G đã điểm!
Tỏ ra tất thản nhiên và lịch sự, Giuđa đến chào và hôn Thầy, nhưng đó không là dấu yêu thương mà là dấu “chỉ điểm” cho những kẻ ác bắt Thầy. Phêrô nóng gáy nên rút gươm chém đứt tai Man-khô, đầy tớ của thầy thượng tế. Nhưng Chúa Giêsu chữa lành cho gã và bảo Phêrô không nên dùng vũ khí. Họ liền ập tới bắt trói Ngài. Thấy vậy, các môn đệ tá hỏa và chạy trốn, có kẻ mất dép, có kẻ tuột cả áo. Ai cũng nói mạnh, nhưng cũng chỉ lẻo mép nói suông. Phàm nhân yếu đuối và hèn nhát lắm, đúng là “nói trước bước không qua.”
Những kẻ thủ ác bắt Đức Giêsu và điệu đến thượng tế Cai-pha. Phêrô đi theo xa xa, đến tận dinh thượng tế, rồi vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao.
Chúa Giêsu im lặng dù người ta chất vấn đủ thứ. Bởi vì có nói với họ thì cũng như nước đổ lá môn, nói với cục đá còn hơn. Cuối cùng, vị thượng tế hống hách nói: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26:63) Nghe chừng đạo đức lắm vì ông ta dám “nhân danh Chúa” mà tra xét. Lúc này Chúa Giêsu phải lên tiếng: “Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.” (Mt 26:64) Như giọt nước làm tràn ly, vị thượng tế liền xé áo mình ra và bảo Đức Giêsu nói phạm thượng, rồi ông ta hỏi mọi người nghĩ sao, họ liền đồng thanh: “Hắn đáng chết!” Cố chấp và đồng lõa, thật đáng sợ!
Rồi có kẻ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Ngài, kẻ khác tát Ngài, họ toa rập với nhau lăng mạ Ngài.
Cuộc đời có những điều tất yếu, chuyện gì sẽ đến rồi cũng đến. Phêrô được Thầy báo trước, nhưng cũng không thể vượt qua chính mình. Thiên hạ thấy ông nên bàn tán xì xầm, ông sợ nên không dám nhận mình là người quen với Đức Giêsu, và còn thề độc là không hề quen với người đang bị hành hạ bên trong kia. Và rồi có tiếng gà gáy, ông sực nhớ lời Đức Giêsu đã nói: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần.” (Mt 26:34) Ông ra ngoài và bật khóc. Có lẽ từ đó, ông rất sợ tiếng gà gáy mỗi sáng, nhưng chắc cũng phải cảm ơn con gà trống.
Theo thông lệ mỗi dịp lễ lớn, tổng trấn phóng thích một người tù, tuỳ ý dân. Khi ấy có một tù nhân khét tiếng là Baraba. Người ta đồng ý thả hắn và cương quyết giết Đức Giêsu. Philatô thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Ngài, thế nhưng vì địa vị chức tước mà ông làm ngơ công lý, vợ ông bảo đừng nhúng tay vào vụ xử vụ này, và ông “ngây thơ” đi rửa tay để chứng tỏ mình vô can. Rất rõ nét thói giả hình, sự hèn hạ và khốn kiếp.
Quả thật, chính Philatô đem Đức Giêsu vào trong dinh và tập trung cả cơ đội quanh Ngài. Chúng lột áo Ngài ra, khoác cho Ngài tấm áo choàng đỏ, rồi kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người, và trao vào tay mặt Ngài một cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng, chúng khạc nhổ vào Ngài và lấy cây sậy mà đập vào đầu Ngài. Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra, cho Ngài mặc áo lại như trước, rồi điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Mọi thứ diễn tiến đúng quy trình của những kẻ mặt người mà lòng dạ ma quỷ.
Dọc con đường lên Núi Sọ, chúng gặp một người Kyrênê tên là Simôn, chúng bắt ông vác thập giá của Ngài, vì thấy Ngài yếu sức, sợ Ngài không thể đến nơi xử tử. Những người nói mạnh hứa chắc, những người tín cẩn, những người được chữa lành, những người được ăn no nê, họ ở đâu lúc dầu sôi lửa bỏng thế này? Tại sao chỉ thấy một mình ông Si-môn ngoại giáo vác đỡ Thập Giá cho Ngài? Cuộc đời là thế, con người là vậy ư?
Khi đến Núi Sọ, chúng cho Ngài uống rượu pha mật đắng, nhưng Ngài chỉ nếm một chút mà không chịu uống. Sau khi đóng đinh Ngài vào thập giá, chúng đem áo Ngài ra bắt thăm mà chia nhau, rồi ngồi canh giữ Ngài. Hôm đó, cùng bị đóng đinh với Ngài là hai tên cướp ở hai bên.
Ngay cả những kẻ qua người lại cũng buông lời nhục mạ và thách thức Ngài. Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục thi nhau chế giễu Ngài vì họ tưởng mình đã hành động đúng với cảm giác hả hê chiến thắng. Thậm chí một tên cướp cùng bị đóng đinh với Ngài cũng không tiếc lời sỉ vả và thách thức Ngài. Vào hùa với nhau làm việc xấu, thật tồi tệ!
Thật kỳ lạ, trời đang nắng mà bỗng dưng tối sầm từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín (12 giờ trưa tới 15 giờ). Vào giờ thứ chín, trong nỗi cô đơn, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: “Êli, Êli, lêma xabácthani – lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46) Người ta cứ tưởng Ngài gọi ông Êlia, rồi một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm, buộc vào đầu cây sậy và đưa lên cho Ngài uống. Rồi Đức Giêsu lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn. Sự tĩnh lặng như tấm màn phủ xuống...
Và ngay thời điểm đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới, rồi đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung, xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ bất ngờ trỗi dậy. Thấy động đất và các sự lạ, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giêsu đều rất đỗi sợ hãi và phải thú nhận: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.” (Mt 27:54; Mc 15:39; Lc 23:47) Ít ra cũng biết chân nhận như thế, muộn còn hơn không. Sự thật minh nhiên, không thể chối cãi, dù người ta cố ý bóp méo cũng không thể.
Ngẫu nhiên mà kỳ lạ: chữ Thắng và chữ Thua cùng vần T. Ở đời cũng vậy, có khi cứ tưởng Thắng mà hóa Thua, nhưng có khi thấy Thua mà lại Thắng. Và chuyện gì sẽ đến cũng lại đến. Ước gì mỗi chúng ta đều như những chiếc lá luôn xanh biếc đức tin, luôn khiêm hạ và chân thành đón nhận Đức Kitô trong mọi hoàn cảnh, khi vui đã đành, khi buồn mới thực sự có giá trị. Đau khổ làm cho cuộc đời có ý nghĩa lạ lùng lắm.
Trong thời gian này, chúng ta phải “chay” mọi thứ vì đại dịch Corona, thực sự là nỗi khổ niềm đau, nhưng là dịp tốt để chúng ta xét mình để biết thiếu hay thừa cái gì mà biết thay đổi cho hợp ý Chúa.

Lạy Thiên Chúa chí thiện, trong lúc hoạn nạn này chúng con mới cảm nhận giá trị của đau khổ, biết thân phận con người mong manh mà thêm tín thác vào sự quan phòng của Ngài. Xin ban Thánh Linh để chúng con có thể hiểu được triết lý của Thập Giá, nhờ đó mà cố gắng đi xuyên qua đau khổ và luôn hướng về Ngài. Xin giúp chúng con đủ sức chịu đau khổ với Đức Kitô để được sống lại với Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét