BA THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI TIỀN CỦA
Bài Tin Mừng hôm nay nói
về của cải: tích trữ của cải. Nhưng của cải thường được quy ra tiền để dễ xếp
thứ hạng xem ai giàu nhất.Ta thử suy gẫm về "tiền" theo gợi ý của đức
giám mục Bùi Tuần:
Tiền không biết nói,
nhưng bao giờ cũng có tiếng nói về đồng tiền. Tuy nhiên nói chưa nhiều bằng
nghĩ. Mấy gia đình không có những người nghĩ đến tiền, dù chỉ trong một buổi.
Tiền chẳng cần ai, nhưng ai cũng cần tiền. Cần mà không dễ có. Muốn có phải lo
tìm. Tìm hoài vẫn thường không đủ. Không đủ nên mới lại cần; cái vòng luẩn quẩn
đó dắt con người làm quen với tiền. Từ quen tới quen thuộc. Từ quen thuộc tới
quen thân, cứ thế đồng tiền ung dung đi vào cuộc đời con người bằng đủ mọi đường
mọi ngả.
Đồng tiền là vật chất
nhưng nó không như sự vật khác. Dù rách, dù hôi nó vẫn được quí. Dù đẹp dù xấu
nó vẫn được yêu. Dù mới tinh còn thơm mùi mực in hay cũ kỹ nhầu nát, nó vẫn được
cất giữ. Phải chăng tương quan giữa người và tiền có gì đặc biệt?
Ta có thể kể ra 3 tương
quan:
1. Con người cần tiền.
Con người cần tiền không
phải vì tiền. Mà con người cần tiền vì tiền cho những trị giá, cho những trị
giá vật chất và cho cả trị giá tinh thần. Trị giá vật chất là tôi cần ăn, tiền
cho tôi những ký gạo. Tôi cần uống, tiền cho tôi chai nước cam. Tôi cần mặc, tiền
cho tôi quần áo. Tôi cần nơi ở, tiền cho tôi mái nhà…
Trị giá tinh thần là khi
tôi cầm tiền trao cho một người túng thiếu, tôi không mua được cái gì vật chất,
nhưng tôi có niềm vui vì đã giúp đỡ. Trị giá tinh thần là khi tôi mua một cuốn
sách: sách kiến thức mở mang tâm trí tôi, sách thiêng liêng, dạy tôi kết hợp với
Chúa hơn. Sách nhân bản giúp tôi sống xứng đáng là người hơn. Một con người hơn
con vật nhờ tinh thần: Linh ư vạn vật
Trị giá tinh thần cũng có
thể là những ngày nghỉ ngơi, những giờ giải trí, những phút vui chơi, tạo thảnh
thơi tâm hồn. Phải có tiền mới có những giá trị đó. Dùng tiền để mua những nhu
cầu, những cái cần thiết cho cuộc sống, đó là thái độ thông thường nhất của những
con người trong tương quan với tiền: Con người cần tiền.
Nhưng người ta cũng thường
nói: được voi đòi tiên. Muốn được tiên, phải có tiền. Có tiền mua tiên cũng được.
Vì thế, từ “cần tiền”, con người khi thấy mãnh lực hấp dẫn của nó sẽ dễ dàng
chuyển sang "mê tiền."
2. Con người mê tiền
Khi thấy đồng tiền không
chỉ mua được những trị giá vật chất và tinh thần cần thiết, mà còn có thể mua
được nhiều cái hơn thế nữa, nhất là trong xã hội tư bản chuộng đồng tiền, thì
người ta mê tiền, khi mê thì ca tụng nó:
Đồng tiền là tiên là phật
– Là sức bật của tuổi trẻ, là sức khoẻ cuả tuổi già, là cái đà của danh vọng,
là cái lọng che thân, là cán cân công lý. Ôi đồng tiền, hết ý!
Rồi nhìn vào xã hội, thấy
người có nhiều tiền được kính nể. Nghề có nhiều tiền được coi là nghề quí. Người
khéo làm ra tiền được coi là người giỏi. Vì thế mà đồng tiền lôi cuốn người ta
theo nó. Con người trở thành kẻ mê tiền, để có tiền thì sẽ được nể nang, được
khen là người giỏi, nhanh nhẹn tháo vát thành công. Để được gọi là ông. “Còn tiền
còn bạc còn đệ tử, hết cơm hết gạo hết 'ông tôi' ” (Nguyễn Bỉnh.Khiêm).
Con người cần tiền để giải
quyết các nhu cầu. Mà nhu cầu thì diễn ra hàng ngày. Do đó con người có thói
quen dùng tiền. Mà thói quen nào cũng có thể chuyển thành đam mê. Quen chơi bài
thành mê bài bạc. Quen chọi gà thành mê đá gà. Quen dùng tiền, thấy tiền tiện lợi,
bỏ túi được, đưa cho ai họ cũng nhận, không trả giá kỳ kèo như khi trao đổi đồ
vật – thì mê tiền. Mê đến cực độ thì mù quáng. Ta gọi đó là tương quan thứ ba:
3. Con người thờ
tiền
Đam mê cái gì quá mức thì
tôn thờ cái đó, trở thành mù với tất cả mà chỉ sáng chỉ thấy với cái mình thờ.
Người ta nói đâm mê sắc dục thì mù quáng nhất, nhưng thiết tưởng tính mê tiền
cũng mù quáng không kém. Người đam mê sắc dục tới độ nào đó sẽ biết mình lỗi lầm,
hối hận. Còn người mê tiền thì có thể mơ đến nó suốt đêm, bàn đến nó suốt ngày,
vơ vét nó suốt tháng và tích trữ nó cả năm mà vẫn không thấy (tức là mù quáng)
vấn đề ít ra thỉnh thoảng cần xét lại. Họ tự phụ trong cái mê đó, nhiều khi còn
mặc cho nó chiếc áo đạo đức: tôi kiếm tiền như thế mới giúp đỡ kẻ khó, mới mở rộng
Nước Chúa được, mới đủ điều kiện giáo dục con cháu.
Bây giờ thử hỏi chúng ta
có phải là kẻ mê tiền không thì chắc gần như 90% ta sẽ trả lời là không, huống
hồ là câu hỏi ta có thờ tiền không – thì càng trăm phần trăm “không!”. Vì trên
bàn thờ của ta trong gia đình vẫn là "Lái" Tim Chúa chứ đâu có đồng bạc
nào. Ta đâu có thờ nó!
Nhưng ta không để tiền
trên bàn thờ mà để trong lòng trong trí ta hầu lúc nào cũng nhớ đến nó. – thì
còn thờ nó hơn 100 lần ta để trên bàn thờ. Mà có cái lạ là càng giàu, càng nghĩ
tới nó. Thử làm một quan sát nhỏ: mỗi tuần có một thánh lễ Chúa nhật, tạm gọi
là giờ thờ phượng Chúa đúng nghĩa. Nhưng thử xem ai là kẻ đến trễ, ai là kẻ về
sớm, ai là kẻ không đi? Hình như xã hội, lớp người càng khá giả ra, càng làm ra
tiền thì càng xa Chúa hơn. Ấy là chưa nói thánh lễ giờ kinh ngày thường, thường
vắng bóng họ.
Đồng tiền là khúc ruột. Đụng
tới tiền bạc là đụng tới khúc ruột của nhiều người. Muốn đụng tới mà không đau,
cần phải có nhiều giờ để rào trước đón sau, diễn giải dẫn dụ, nhưng điều đó lại
không làm được trong giờ phút ngắn ngủi chia sẻ Lời Chúa này vì cũng còn phải kết
thúc sớm đặng về lo làm ăn kiếm tiền – dù hôm nay là Chúa nhật nữa chứ!
Nhưng ta nhớ rằng Chúa
Giêsu nói không ai có thể thờ hai chủ: vừa thờ Thiên Chúa vừa thờ Tiền Của! Cái
nguy cơ là ta thờ tiền mà ta không biết. Xin cho lời kinh Tin Kính mà ta sắp
tuyên xưng trong đó ta tuyên xưng chỉ thờ một Thiên Chúa duy nhất, chỉ tin kính
mình Ngài, luôn ở mãi trong tâm trí ta, để dù bận rộn làm ăn, ta vẫn không đặt
Chúa bên lề, mà để Tiền Của bên trên. Amen
Anphong Nguyễn Công Minh,
ofm
(lấy ý từ bài viết của
đgm Bùi Tuần)
Tác giả: Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét