Sun, 21/08/2022 - Trần Mỹ
Duyệt
VĂN HÓA VONG THÂN VỀ GIỚI TÍNH, PHÁI TÍNH VÀ CHUYỂN GIỚI
Hơn 50 năm trước, những từ
ngữ như ly dị, ngừa thai, phá thai, đồng tính là những gì nghe rất xa lạ, khó
hiểu, và nhậy cảm. Chúng ít được đề cập tới, và nếu có thì cả người nói lẫn người
nghe đều rất dè dặt, kín đáo. Tóm lại, đây là những từ ngữ cấm kỵ dưới ảnh hưởng
văn hóa và đạo đức xã hội. Nhưng khi những từ ngữ này được nghe, được nói và được
truyền đạt một cách rộng rãi, thì kéo theo những hệ quả hết sức tai hại: nhiều
gia đình đổ vỡ vì ly dị. Nhiều trẻ em bị giết hại do ảnh hưởng của phá thai. Số
người, kể cả tuổi trẻ tự nhận mình là đồng tính và chuyển giới gia tăng. Thêm
vào đó, các phong trào tự do, bình quyền, và phụ nữ cũng được ủng hộ và phổ biến
một cách cuồng nhiệt. Và cuối cùng là phong trào chuyển giới.
Những diễn tiến trên thực
ra không gì khác hơn là một cuộc cách mạng văn hóa và luân lý, một cuộc chiến
sinh tử giữa lành và dữ, giữa tội lỗi và thánh thiện, giữa thiện và ác, mà trọng
tâm của nó chính là những giá trị của con người và hạnh phúc của hôn nhân gia
đình. Chị Lucia, một trong ba thụ khải nhân Fatima đã nói về vấn đề này trước
khi qua đời: “Trận chiến sau cùng giữa Thiên Chúa và Satan là trận chiến gia
đình.” Tại sao?
TRẬN CHIẾN GIA
ĐÌNH
Từ suy luận mang tính tâm
linh, chúng ta biết rằng mục đích chính của Satan là bằng mọi cách làm mất đi
hình ảnh ban đầu của tạo vật được Thượng Đế yêu thương mang hình ảnh Ngài. Một
tạo vật mà Ngài phải suy nghĩ trước khi tạo nên nó: “Rồi Thượng Đế nói, “Chúng
ta hãy tạo nên con người mang hình ảnh của chúng ta…” (Gen 1:16). Và Ngài đã dựng
nên họ “có nam, có nữ” (27). Họ là những con người nguyên thủy đã được chính
Thượng Đế sáng tạo.
Ai cũng biết sự kết hợp
giữa một người nam và một người nữ là hình mẫu của hôn nhân. Một trong những mục
đích và kết quả của nó là những đứa con. Định luật này cũng chính do Thượng Đế
đã thiết lập: “Hãy sinh sản ra nhiều mặt đất và hãy thống trị trái đất.” (Gen
1:28) Tuy nhiên do con người, đúng ra là do sự ghen tỵ và thù hận của Satan, đã
làm hỏng hoặc sai lạc đi những gì tốt đẹp mà Thượng Đế đã an bài. Để phá vỡ
chương trình ấy, trước hết Satan cố tình gây ra những khủng hoảng, những xung đột,
những khó khăn trong đời sống hôn nhân dựa trên những khác biệt về thể lý, tâm
lý nam nữ, văn hóa, giáo dục, và ngay cả ảnh hưởng tôn giáo để chia rẽ, tạo nên
“những xung khắc không thể hòa hợp” (Irreconcilable Differences) mà kết quả sau
cùng là ly dị.
Với những cặp vợ chồng cố
gắng thực thi đời sống hôn nhân, thì tư tưởng ngừa thai và phá thai là những
cám dỗ. Cũng như ly dị, ngừa thai, phá thai chính là những cạm bẫy vô cùng tinh
vi nhằm phá vỡ hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc hôn nhân, hạnh phúc gia đình. Phá
thai đối với những cặp vợ chồng hoặc những đôi trai gái không sống trong đời sống
hôn nhân là một hành động coi thường, hạ nhục hành động ân ái, và giá trị sự sống.
Những luận điệu như quyền sinh sản, quyền nữ giới, quyền chọn lựa của người phụ
nữ là những chiêu bài đang được truyền thông cực đoan phổ biến một cách hết sức
rộng rãi. Nó cũng được những người cấp tiến ủng hộ. Sự ủng hộ này gần đây còn
được chính trị hóa, và do đó, càng trở nên mạnh mẽ.
Loại bỏ khả năng sinh sản
khỏi hôn nhân và cơ thể do nền văn hóa phương Tây và việc kỹ thuật số hóa căn
tính đã cổ vũ các phương tiện ngừa thai, làm cho những người trẻ tuổi không còn
chú trọng vào bản sắc của họ nữa. Nhất là đối với những người tự cho mình là
người chuyển giới, những người lưỡng giới, hoặc lưỡng tính có cơ hội để khỏa lấp
những đòi hỏi mà họ cho rằng đang kìm hãm con người thực của mình. Dường như có
một điều gì đó giống như một căn bệnh xã hội lây lan của ý thức hệ phái tính,
nhất là đối với những người trẻ đang đấu tranh với căn tính của họ vì những lý
do khác ngoài sự không hài lòng với phái tính của mình.
Song song với những phong
trào ly dị, ngừa thai, phá thai, tiếp đến gần đây hơn là trào lưu đồng tính,
hôn nhân đồng tính và chuyển giới. Đây được coi là những thành quả đưa đến sự
vong thân về giới tính (sex) và phái tính (gender) đối với tuổi trẻ. Hội chứng
“không hài lòng với phái tính” (gender dysphoria) là bước đầu được khai thác để
dẫn đến hành động chuyển giới (transsexual). Đặc biệt, phong trào chuyển giới
hiện nay đang được xã hội nâng đỡ do các phương tiện y khoa nghiên cứu, ứng dụng,
do việc chích thuốc chuyển giới, đến việc cung cấp các dịch vụ tâm lý chuyển giới.
Một người muốn nói về giới tính của mình, muốn trở thành một người chuyển giới
(transgender person) từ nam thành nữ, trai thành gái, hoặc gái thành trai, nữ
thành nam ngày nay không còn gặp những khó khăn, cấm đoán như trước đây. Tất cả
được cho là chọn lựa riêng tư, được hỗ trợ bởi tâm lý, tâm thần, và y khoa. Xã
hội với những phương tiện truyền thông đang cố gắng khuynh loát bằng những lý
thuyết trái chiều, những hình ảnh đầy hấp dẫn hầu đưa đến sự chấp nhận một cách
dễ dãi những con người và quan niệm sống như thế.
Đồng tính (hommosexual),
hôn nhân đồng tính (same-sex marriage) và chuyển giới là hướng tiến cuối cùng
nhưng độc hại, nguy hiểm nhất mà Satan và những kẻ tiếp tay với hắn đang cố gắng
dùng để phá vỡ hình ảnh và chương trình của Thượng Đế về một người nam hay nữ
mang hình ảnh của Ngài, về mô hình của một gia đình do Ngài thiết lập, và những
dự tính tốt đẹp mà Ngài dành cho gia đình ấy. Ảnh hưởng của nền văn hóa sự chết
(St. John Paul II) này đang lan tràn sâu rộng và thấm nhập rất mạnh mẽ trong
quan niệm và đời sống của giới trẻ.
Những khảo cứu gần đây
cho thấy xu hướng đồng tính và chuyển giới đang được giới trẻ đón tiếp một cách
cởi mở và hào hứng nhờ sự tiếp sức loan truyền và phổ biến của truyền thông, của
những phong trào và đoàn thể chính trị. Với cái nhìn về lịch sử, việc chuyển đổi
phái tính là một hiện tượng hiếm hoi. Thoạt đầu nó chỉ bắt đầu, phần lớn nam giới
ở tuổi trung niên, nhưng trong thập niên vừa qua, dưới ảnh hưởng của nhân khẩu
học, quan niệm này đã thay đổi, ảnh hưởng mạnh đến nữ giới, và tuổi trung bình
đã giảm nhanh xuống dưới tuổi vị thành niên. Số người tìm cách điều trị hội chứng
“không hài lòng với phái tính” đã tăng nhanh - đặc biệt là ở những người trẻ tuổi.
Thống kê cho thấy:
Tại Anh, số người trẻ muốn
chuyển giới đã tăng gần 1,900% từ năm 2010 đến năm 2020.
Tại Mỹ, một nghiên cứu
năm 2022 của Viện Williams cho thấy 43% những người được chuyển giới là dưới 25
tuổi. Việc chuyển giới ở nhóm tuổi này đã tăng gấp đôi kể từ báo cáo cuối cùng
được công bố năm 2017.
Tại Âu châu, các quốc gia
như Tân Tây Lan, Phần Lan, Gia Nã Đại và Hòa Lan cũng ghi nhận mức độ gia tăng
tương tự ở những người trẻ về hội chứng gender dysphoria, và việc tìm cách chuyển
đổi giới tính. [1]
Hiện tượng này cũng bắt đầu
thấy xuất hiện nở rộ tại Việt Nam qua những chương trình giải trí - đúng hơn -
là quảng cáo cho cái gọi là “come out”. Trong khi giới trẻ háo hức theo dõi, bắt
chước, thì giới phụ huynh lại lo lắng, hoang mang. Làm gì bây giờ? Bảo thủ cũng
không được mà tự do chấp nhận cũng không được. Còn hành động trung dung? Tìm
đâu ra những hướng dẫn cần thiết trong lãnh vực giáo dục, tâm lý, và luân lý.
Phụ thuộc vào nhà trường? Lắng nghe truyền thông? Tin tưởng vào dư luận và hướng
dẫn của dư luận? Hoàn toàn sai lầm, vì tất cả đang chạy theo khuynh hướng thời
thế. Dựa vào niềm tin? Nhưng niềm tin nhiều lúc cũng đang gặp thử thách. Con
người ngày nay đang sống theo sự hướng dẫn của lương tâm sai lạc, một nền đạo đức
tương đối (Realism). Tóm lại, đây là vấn đề thời đại, và là vấn đề nhức nhối.
VONG THÂN
Ngày nay nhiều người, nhất
là giới trẻ đang đi vào con đường vong thân, chối bỏ nguồn gốc và bản sắc con
người của chính mình. Những từ ngữ như phái tính, giới tính và chuyển giới đối
với những người này được cho như những khám phá mới mẻ, văn minh và khoa học.
Nhưng thực sự có lẽ hầu hết họ không hiểu những thứ này là gì ngay đối với
chính con người và bản thân của họ.
Theo Từ Điển Tiếng Việt,
giới tính (Sex) được định nghĩa là: Đặc điểm của cơ thể và tâm lý làm cho hai
phái nam và nữ hoặc giống đực và giống cái có chỗ khác biệt của nhau. [2] Trong
khi đó, phái tính gồm cấu trúc con người được nhận diện như thế nào. Không giống
như giới tính được cấu tạo do những khác biệt thể lý và tâm lý. Phái tính là một
phân loại tổng quát, từ đó, một người được phân loại là đàn ông hay đàn bà. Như
vậy, khi một người hay một em rơi vào trạng thái vong thân về chính con người của
mình, có nghĩa là người đó hoặc em đó đang từ chối, đang phủ nhận chính con người
và bản sắc của mình.
Những câu hỏi tôi là ai?
Là trai hay gái? Là đàn ông hay đàn bà? Tình cảm của tôi đối với người khác
phái lúc này như thế nào? Nhu cầu tâm sinh lý, những khát khao về tình yêu,
tình dục của tôi bảo cho tôi biết mình là đàn ông hay đàn bà, con trai hay con gái?
Sự thu hút của tôi đối với người khác phái ra sao? Thực chất tôi là một người
con trai trong hình hài một người con gái? Hoặc ngược lại, tôi là một cô con
gái trong hình hài của một người con trai? Làm sao chứng minh, phân tích được
những khắc khoải này theo cơ thể học, sinh vật học, tâm lý học, hay đạo đức học?
Làm sao chứng minh được hội chứng hoài nghi về con người của mình? Nếu quả thật
tôi là người đồng tính, bị thôi thúc bởi tình yêu đồng tính, bởi ý nghĩ chuyển
giới như vậy, tôi phải làm gì? Chọn sống thật với giới tính của mình, chọn giải
pháp chuyển giới hay chấp nhận dồn nén của mình như hiện có.
Những suy nghĩ và những
câu hỏi trên, cũng như rất nhiều các câu hỏi khác liên quan đến vấn đề đang làm
cho đời sống giới trẻ ngày nay đi vào khủng hoảng, và kéo theo những thế hệ kế
tiếp sống như những con người ngoài bản thân, không biết mình như thế nào và là
ai? Điều này sẽ kéo theo sự băng hoại của cấu trúc gia đình, xã hội, định nghĩa
hôn nhân, vai trò và trách nhiệm người chồng, người vợ, cũng như người cha, người
mẹ trong việc sinh sản và giáo dục con cái.
NHẬN ĐỊNH
CHUYÊN MÔN
Tháng 7 vừa qua, Charlie
Camosy, giáo sư thần học và đạo đức xã hội của Đại Học Fordham, đã thực hiện một
cuộc phỏng vấn với hai học giả hàng đầu về phái tính, giới tính và những gì
đang xảy ra trên toàn xã hội và thực hành y tế là: Abigail Favale, Ph.D., nhà
văn, giáo sư tại Viện McGrath về Đời Sống Giáo Hội tại Đại Học Notre Dame, và
là người trở lại đạo Công Giáo, và John Grabowski, Ph.D., giáo sư thần học luân
lý tại Đại Học Công Giáo America, chuyên về nhân chủng thần học, đạo đức học
nhân đức, hôn nhân và tính dục. Cuộc phỏng vấn này được phổ biến trên The
Pillar*.
Theo 2 vị giảng sư này
các vấn đề đang gây tranh cãi hiện nay về giới tính, phái tính, và chuyển giới
đã trở thành những chủ đề được nói đến và bàn luận nhiều nhất hiện nay. Mặt
khác nó cũng là những vấn đề phức tạp và nhậy cảm; đặc biệt, với sự gia tăng của
phong trào quyền của người chuyển giới, với ảnh hưởng của xã hội và chính trị,
cùng với sự bùng nổ về số lượng thanh niên tự nhận mình ở bên ngoài “giới tính
nhị phân”. [3]
Những xu hướng
mới:
Một số xu hướng mà theo
Tiến Sỹ Abigail Favale có thể giúp chúng ta hiểu tầm quan trọng của vấn đề này
đó là: sự cộng tác và phổ biến của các cơ sơ truyền thông, sự công nhận của nhiều
người nổi tiếng, học giả và các cơ quan pháp luật. Liên Hiệp Quốc cũng đang xem
xét việc thông qua các hiệp ước sẽ công nhận hơn 100 phái tính. Ngoài ra, trong
lãnh vực y khoa, người ta đang cố gắng nghiên cứu những phẫu thuật nhằm thực hiện
các ca đổi giống, các hóa chất làm giảm căng thẳng về sự hiểu nhầm giới tính
trong lãnh vực tâm lý.
Đối với Tiến Sỹ Grabowsk,
một điều xem như nghịch lý xét về mặt tâm sinh lý, đó là hầu hết trẻ em (khoảng
80 %) từng trải nghiệm triệu chứng không hài lòng với phái tính đã hết lúc trưởng
thành. Kết quả đang chứng minh rằng không dùng thuốc để chữa trị hội chứng này
đã được đa số các tổ chức tâm lý và y tế tán thành trong thời gian gần đây. Đặc
biệt, tại Thụy Điển - quốc gia tiên phong tiến bộ trong việc khẳng định phái
tính - hiện đang ưu tiên hóa các chương trình trị liệu tâm lý hơn là kích thích
tố.
Ông cũng lưu ý đến một nhận
xét khác, đó là, trên khắp Châu Âu, như Phần Lan, Pháp và Anh, kể cả báo cáo của
Thụy Điển cũng ghi nhận ngày càng có nhiều người hoàn phái tính, những người bắt
đầu con đường chuyển giới bằng y khoa nhưng sau đó thay đổi ý định, và ở những
người này thường để lại các tổn thương về mặt thể lý không thể sửa chữa.
Ảnh hưởng tiêu
cực:
Nhưng liệu chúng ta có
mang tiếng “giết người chuyển giới theo nghĩa đen,” Charlie Camosy đã hỏi hai học
giả nếu làm ngơ trước phong trào chuyển giới, thay đổi giới tính hiện nay
không?
Tiến Sỹ Favale đã tỏ ra rất
quan tâm về vấn đề này. Theo bà, ngày càng có nhiều lo ngại rằng thế giới đang
áp dụng những phương pháp triệt sản và y khoa hóa các người trẻ đồng tính một
cách vô trách nhiệm. Bà cho rằng, có một tỷ lệ hoàn giới (đổi ý tưởng chuyển giới)
cao của hội chứng không hài lòng với phái tính khởi phát từ lúc còn nhỏ. Một số
trẻ em này lớn lên trở thành đồng tính nam. Nhiều người đồng tính lớn tuổi biểu
lộ hành vi không phù hợp phái tính lúc thơ ấu.
Nhờ vào kết quả của cuộc
nghiên cứu dài hạn dựa trên dân số, chúng ta biết thêm rằng con số tự tử tăng gấp
19 lần sau các thủ tục xác định lại giới tính - và điều này phát xuất từ Thụy
Điển. Ngoài ra, thanh thiếu niên LGBT + có nguy cơ mắc nhiều bệnh tâm thần và tự
tử cao hơn.
Tuổi trẻ ở một khía cạnh
nào đó, theo Tiến Sỹ Favale, đã trở nên nạn nhân với các phương pháp thử nghiệm
đầy rủi ro. Thí dụ, các em gái ở độ tuổi mười ba đang giải phẫu cả hai vú. Các
thiếu niên có thể tới các phòng khám của Planned Parenthood và bắt đầu sử dụng
kích thích tố chuyển giới mà không cần sự giám sát của bác sĩ.
Tiến Sỹ Grabowski cũng đã
nêu lên những bằng chứng đáng kể cho thấy các thủ thuật chuyển giới như dùng
hóa chất và phẫu thuật đơn giản không phải là một chọn lựa y khoa tốt. Thí dụ,
sử dụng thuốc chặn tuổi dậy thì (puberty blocker) có liên quan tới việc mất mật
độ xương (bone density), tăng trưởng còi cọc, vô sinh và kém phát triển của mô
sinh dục [4]. Các chương trình hỗ trợ các phương pháp chuyển giới cũng thừa nhận
một số tác dụng phụ có thể gây ra do dùng kích thích tố, như giảm chức năng
tình dục, đau vùng xương chậu, vô sinh, và có thể dẫn đến các vấn đề tim mạch
như tăng huyết áp, tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim và đột quỵ.
Tóm lại, theo những học
giả trên, và căn cứ vào các tài liệu khoa học hiện nay đã không ủng hộ chủ
trương cho rằng các thủ thuật chuyển giới có lợi cho bệnh nhân. Năm 2016, Trung
Tâm Dịch Vụ Medicare & Medicaid của chính phủ Obama đã xuất bản một bản ghi
nhớ kết luận rằng, dựa trên các nghiên cứu hiện có, không có bằng chứng về những
thay đổi đáng kể về mặt lâm sàng sau các thủ thuật chuyển giới.
Cái nhìn của
các học giả:
Liên quan đến những khía
cạnh lịch sử, văn hóa và triết học, Tiến Sỹ Grabowski đã trình bày một số điều
về sự pha trộn độc hại của các nền triết học hiện đại đã giúp hình thành ý thức
hệ này. Thí dụ, việc xóa bỏ bản chất con người và gia đình do chủ nghĩa hiện
sinh, chủ nghĩa hậu hiện đại và chủ nghĩa Mác gây ra.
Những điều này đã có ảnh
hưởng rộng rãi trong nền văn hóa của chúng ta, nơi mà gia đình và bản sắc cá
nhân đã bị phá vỡ bởi những thay đổi có tính địa chấn của cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ,
Cách Mạng Tình Dục, và Cách Mạng Kỹ Thuật đang diễn ra xung quanh chúng ta. Ông
cũng cho rằng, các kỹ thuật ngừa thai hiện đại một hình thức - Cách Mạng Tình Dục
- đã loại bỏ khả năng sinh sản vốn có đó ở trung tâm của sự khác biệt giới tính
khỏi cả hôn nhân lẫn bản thân, khiến cơ thể không còn telos [cùng đích].
Thêm vào đó, ý tưởng cho
rằng cơ thể chỉ đơn giản là một màn hình để chiếu căn tính lên trên và nếu nhận
thấy bản sắc cá nhân và cơ thể không phù hợp, nó có thể bị phá bỏ bằng quá
trình chuyển giới, như hóa chất và phẫu thuật, là một triết lý vong thân về giá
trị phái tính và con người.
Với Tiến Sỹ Favale, bà
nghĩ rằng điều quan trọng là phải chống lại một cuộc cách mạng song phương giữa
trí tưởng tượng văn hóa và điều kiện vật chất: cuộc cách mạng khái niệm và cuộc
cách mạng ngừa thai.
Đầu tiên nó bắt nguồn từ
những khái niệm trước những năm 1950. Theo đó, “phái tính” là một từ được nhà
tâm lý học John Money mượn để giải thích giả thuyết của về căn tính của chúng
ta như con trai và con gái. Ông đã phân biệt giữa phái tính, là một cơ cấu xã hội
và “giới tính”, là một cơ cấu sinh học.
Vào những năm 1970, các
nhà duy nữ (feminists) đã dựa sự phân biệt giới tính / phái tính này như một định
chế xã hội. Tiếp theo nhà lý thuyết hậu hiện đại Judith Butler cho rằng bản
thân giới tính, chứ không phải chỉ giới tính, là một cơ cấu xã hội - tất cả các
nỗ lực phân loại hoặc thêm ý nghĩa cho các đặc điểm sinh học căn bản là vấn đề
quyền lực xã hội hơn là kiến thức.
Theo Tiến Sỹ Favale, lý
thuyết của Butler đã thách thức ý niệm giới tính nhị phân, và bây giờ chúng ta
gặp một sự đảo ngược kỳ lạ về phái tính. Nó được định nghĩa như một cảm nhận của
một người về bản thân mình như đàn bà, đàn ông, mà không phải là đàn ông hay
đàn bà bẩm sinh và có thật. Trong khi giới tính được xem như một cấu trúc hay
hư cấu có thể thay đổi được.
Cuộc cách mạng khái niệm
diễn ra song song với việc chấp nhận và sử dụng các biện pháp ngừa thai rộng
rãi. Và ngừa thai đã thay đổi đáng kể các thực hành, chuẩn mực, kỳ vọng về tình
dục của chúng ta - và quan trọng nhất, dẫn đến nhận thức chung cho rằng “đàn
bà” và “đàn ông” trong căn bản được định nghĩa bằng tiềm năng sinh sản bẩm
sinh. Điều này đã đánh mất đi ý thức bản năng về nam và nữ với những chức năng
khác nhau trong việc sinh sản, thay vào đó, phái tính là về ngoại hình, phát biểu
và vai trò xã hội như chúng ta thấy hiện nay.
Thêm vào đó, một số nhân
tố quan trọng khác thúc đẩy hiện tượng chuyển giới bao gồm môi trường trực tuyến
ba chiều (immersive) và vô thân (disembodied) của nền văn hóa tuổi trẻ phương
Tây, cộng thêm ảnh hưởng tràn lan của văn hóa khiêu dâm đối với quan niệm về ý
nghĩa của việc là đàn ông, đàn bà và của cơ thể có giới tính của chúng ta.
KẾT LUẬN
Thật ra, không có một giải
pháp đơn giản nào có thể giải đáp được toàn bộ hiện tượng vong thân phái tính,
giới tính và chuyển giới như hiện nay. Cũng chưa có câu trả lời nào thỏa đáng
được những câu hỏi liên quan đến các vấn đề này. Một phần cũng là do sự chấp nhận
ngày càng rộng rãi của xã hội đối với những người tự xác định mình thuộc cộng đồng
đồng tính, lưỡng tính, ái nam ái nữ, và chuyển giới LGBTQIA + .
Cộng thêm vào những phức
tạp đó là việc loại bỏ khả năng sinh sản khỏi hôn nhân và cơ thể do nền văn hóa
phương Tây và các phương tiện ngừa thai, phá thai đang làm cho những người trẻ
tuổi không còn đặc trọng tâm vào căn tính, bổn phận và sứ mạng của họ nữa. Cách
riêng đối với những người tự nhận mình là người chuyển giới, lưỡng tính, hoặc
phái tính hay giới tính kỳ dị.
Tất cả như một căn bệnh
xã hội lây lan của ý thức hệ phái tính. Nó thôi thúc những người trẻ đấu tranh
cho những gì mà họ cho là không hợp về phái tính và giới tính. Đối với giới trẻ,
phần lớn điều này là kết quả đến từ việc tiếp xúc với ý thức hệ phái tính thông
qua các nhóm đồng lứa, cũng như các phương tiện truyền thông. Hiện tượng này
mang tên “rapid onset gender dysphoria.”
Tuổi thiếu niên là khoảng
thời gian đầy sóng gió và khó khăn đối với hầu hết mọi người.
Cơ thể của tuổi trẻ đang
thay đổi nhanh chóng như đang cưỡi một cơn sóng thần kích thích tố. Nó kích
thích những thử nghiệm và vượt qua ranh giới.
Tuổi thiếu niên cũng là một
giai đoạn phát triển khi các mối quan hệ đồng trang đồng lứa trở nên quan trọng
và có ảnh hưởng lớn. Ngoài ra, thế giới cũng đang chứng kiến cuộc khủng hoảng sức
khỏe tâm thần ngày càng gia tăng ở những người trưởng thành trẻ tuổi.
Nhưng dựa theo ý kiến của
các học giả, hành động chối bỏ phái tính, chối bỏ giới tính chỉ là một cuộc chạy
trốn song song khỏi tư cách nam giới. Ai còn muốn lớn lên trở thành một người
đàn ông, nếu nam giới mất đi đặc tính chinh phục?
Chúng ta đang rất cần những
cuộc khảo cứu nghiêm chỉnh và khách quan có tính cách tích cực hầu giúp cho việc
phát triển phái tính, những nghiên cứu chống lại những định kiến và chỉ ra tính
cách đa dạng để sống thực với giới tính một cách có ý nghĩa. Trong khi chờ đợi
những kết quả khảo cứu thuộc các lãnh vực khoa học, tâm lý và xã hội, điều cần
thiết nhất lúc này là trở về với nguyên mẫu của con người đã được Thượng Đế tạo
dựng, đó là đàn ông và đàn bà, nam và nữ. Đồng thời sống hôn nhân theo mô hình
và mục đích mà Thượng Đế đã thiết lập: một đàn ông kết hợp với một đàn bà. Sinh
con cái và làm cho đời sống hôn nhân phong phú trong yêu thương. Đây cũng chính
là một phương pháp tâm lý trị liệu hữu hiệu cho căn bệnh xã hội về vong thân
phái tính, giới tính, đồng tính và chuyển giới: “Thượng Đế đã tạo dựng con người
theo hình ảnh Ngài, trong hình ảnh Ngài, Thượng Đế đã tạo nên họ có nam và có nữ.
Và Ngài chúc phúc cho họ.” (Gen 1:27, 28)
(Để tham khảo thêm những
đề tài tâm lý, giáo dục, tình yêu, hôn nhân, gia đình, xã hội, và tôn giáo, xin
vào thăm trang www.giadinhnazareth.org)
_____________
*The Pillar is an
American news website focusing on the Catholic Church. The site's stated
mission is to “do serious, responsible, sober journalism about the Church, from
the Church, and for the Church.”
[1] Making sense of sex,
gender, and trans issues - The Pillar.
https://www.pillarcatholic.com
› making-sense-of-sex-gen...
[2] Từ Điển Tiếng Việt.
Nhà Xuất Bản Hồng Phúc.
[3] Making sense of sex,
gender, and trans issues - The Pillar
https://www.pillarcatholic.com
› making-sense-of-sex-gen...
[4] Mayo Clinic, 2022;
Carmichael và cộng sự, trang 40.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét