CON MẮT
Chuyện
kỳ thị -Thu, 31/03/2022 - Trầm Thiên Thu
Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn.
Người ta công nhận như vậy. Nhưng cũng chính “cửa sổ tâm hồn” đó lại có thể là
“cửa ngõ tối tăm” của hầm hố tội lỗi. Chúa Giêsu gọi mắt là đèn của thân thể:
“Đèn của thân thể là con mắt. Nếu mắt anh sáng thì toàn thân sẽ sáng.” (Mt
6:22)
Và Ngài nói về “ngõ tối”
của con mắt: “Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì
trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh
sa ngã thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể còn hơn là toàn thân
bị ném vào hoả ngục.” (Mt 5:28-19)
Kinh Thánh cho biết thêm
rằng có sáu điều làm Thiên Chúa gớm ghét và bảy điều khiến Ngài ghê tởm. Trong
đó, điều đầu tiên liên quan con mắt: “MẮT kiêu kỳ, LƯỠI điêu ngoa, TAY đổ máu
người vô tội, LÒNG mưu tính những chuyện xấu xa, CHÂN mau mắn chạy đi làm điều
dữ, kẻ làm chứng gian thốt ra LỜI DỐI TRÁ, người GIEO XUNG KHẮC giữa anh em.”
(Cn 6:17-19)
Tục ngữ Rumani nói: “Đàn
ông có đôi mắt để nhìn người khác, đàn bà có đôi mắt để người khác nhìn.” Nam
và nữ có những thứ khác nhau, thậm chí có vẻ trái ngược nhau, nhưng đó là nghịch-lý-thuận,
như phần cứng đã được cài đặt sẵn, và chính sự khác nhau đó nhằm bổ túc lẫn
nhau chứ không để đối nghịch nhau. Hằng ngày, chúng ta vẫn thấy khi “đấu khẩu”
với nhau, đàn ông chê đàn bà, đàn bà trách đàn ông, nhưng rồi họ vẫn cần đến
nhau, có thiếu nhau được đâu! Phải chăng họ đang tự mâu thuẫn với chính mình?
Sách Samuel, quyển 2, nói
về quá trình phạm tội của Vua Đavít. Ông là người “có đôi mắt đẹp và khuôn mặt
xinh xắn,” (1 Sm 16:12) được Thiên Chúa tuyển chọn – nhưng chắc chắn không vì
ông điển trai, ông có vợ và cung phi mỹ nữ phục dịch rồi, giàu sang phú quý, muốn
gì được nấy, thế mà ông vẫn tham lam đến nỗi bày mưu thâm kế độc để chiếm đoạt
vợ của tướng Urigia. Nguyên nhân bởi từ ánh mắt: Ông nhìn thấy một mỹ nhân đang
tắm – nàng Bát Seva, nhan sắc khiến chim sa cá lặn, đổ nước nghiêng thành. Tuy
nhiên, phụ nữ này cũng “chẳng vừa” gì, có chồng rồi mà vẫn “dễ dãi,” trắc nết,
không ngần ngại phản bội chồng để được “gần gũi” với nhà vua.
Chúng ta cùng đọc lại
trình thuật 2 Sm 11:1-26 để biết rõ chi tiết:
Lúc xuân về, thời mà các
vua ra quân, vua Đavít sai ông Giôáp đi, cùng với các bề tôi của vua và toàn thể
Israel. Họ giết hại con cái Ammon và vây hãm Rápba. Còn vua Đavít thì ở lại
Giêrusalem.
Vào một buổi chiều, vua
Đavít từ trên giường trỗi dậy và đi bách bộ trên sân thượng đền vua. Từ sân thượng,
vua THẤY một người đàn bà đang tắm. Nàng nhan sắc tuyệt vời. Vua Đavít sai người
đi điều tra về người đàn bà, và người ta nói: “Đó chính là bà Bát Seva, con gái
ông Êliam, vợ ông Urigia người Khết.” Vua Đavít sai lính biệt phái đến đón
nàng. Nàng đến với vua và vua nằm với nàng; khi ấy nàng mới thanh tẩy sau thời
kỳ ô uế. Rồi nàng trở về nhà. Người đàn bà thụ thai. Nàng sai người đến báo tin
cho vua Đavít rằng: “Tôi có thai.”
Vua Đavít sai người đến
nói với ông Giôáp: “Hãy sai Urigia, người Khết, về gặp ta.” Ông Giôáp sai ông
Urigia về gặp vua Đavít. Khi ông Urigia đến với vua, vua Đavít hỏi thăm về ông
Giôáp, về quân binh, về chiến sự. Rồi vua Đavít bảo ông Urigia: “Hãy xuống nhà
của ngươi và rửa chân.” Ông Urigia ra khỏi đền vua, có người bưng ra một phần
thức ăn của nhà vua theo sau. Nhưng ông Urigia nằm ở cửa đền vua với tất cả các
bề tôi của chúa thượng ông, và ông không xuống nhà mình.
Người ta báo tin cho vua
Đavít rằng: “Ông Urigia đã không xuống nhà ông.” Vua Đavít hỏi ông Urigia: “Chẳng
phải ngươi đi đường xa mới về ư? Tại sao ngươi không xuống nhà của ngươi?” Ông
Urigia thưa với vua Đavít: “Hòm Bia cũng như Israel và Giuđa đang ở lều, chủ tướng
tôi là ông Giôáp và các bề tôi của chúa thượng đang đóng trại ở ngoài đồng trống,
mà tôi đây lại về nhà ăn uống và nằm với vợ tôi sao? Tôi xin lấy mạng sống của
ngài, lấy chính mạng sống của ngài mà thề: tôi sẽ không làm điều ấy!” Vua Đavít
bảo ông Urigia: “Hãy ở lại đây hôm nay nữa, ngày mai ta sẽ cho ngươi đi.” Ông
Urigia ở lại Giêrusalem ngày hôm đó. Ngày hôm sau, vua Đavít mời ông; ông ăn uống
trước mặt vua, và vua cho ông uống say. Đến chiều, ông ra nằm giường của ông
cùng với các bề tôi của chúa thượng ông, nhưng không xuống nhà mình.
Sáng hôm sau, vua Đavít
viết thư cho ông Giôáp và gửi ông Urigia mang đi. Trong thư, vua viết rằng:
“Hãy đặt Urigia ở hàng đầu, chỗ mặt trận nặng nhất, rồi rút lui bỏ nó lại, để
nó bị trúng thương mà chết.” Ông Giôáp đang thám sát thành liền để ông Urigia ở
chỗ ông biết là có quân hùng mạnh nhất. Người trong thành xông ra, giao chiến với
ông Giôáp. Một số người trong quân binh, trong các bề tôi vua Đavít đã ngã gục,
và ông Urigia, người Khết, cũng chết.
Ông Giôáp sai người về
báo cho vua Đavít biết tất cả diễn tiến trận đánh. Ông ra lệnh cho người lính
biệt phái rằng: “Khi anh kể tất cả diễn tiến trận đánh cho đức vua xong, nếu
cơn giận đức vua nổi lên và người hỏi anh: Tại sao các ngươi lại đến gần thành
mà giao chiến? Các ngươi không biết là người ta bắn từ trên tường thành xuống
sao? Ai đã hạ Avimeléc, con ông Giơrúpbesét? Chẳng phải một người đàn bà đã liệng
xuống ông một thớt cối đá và ông đã chết tại Têvết đó sao? Tại sao các ngươi lại
đến gần tường thành?, anh sẽ nói: Tôi tớ ngài là ông Urigia, người Khết, cũng
đã chết.”
Người lính biệt phái ra
đi và đến báo cho vua Đa-vít biết mọi điều ông Giôáp đã sai anh về nói. Người
lính biệt phái nói với vua Đavít: “Những người ấy đã mạnh hơn chúng tôi và đã
xông ra đánh chúng tôi ở ngoài đồng, nhưng chúng tôi đã đẩy lui chúng cho đến lối
vào cửa thành. Từ trên tường thành, lính bắn cung đã bắn xuống các bề tôi của
ngài. Một số bề tôi đức vua đã chết, cả tôi tớ ngài là ông Urigia, người Khết,
cũng đã chết.”
Vua Đavít bảo người lính
biệt phái: “Hãy nói với ông Giôáp thế này: Đừng bực mình về chuyện ấy, vì việc
binh đao là thế: khi thì người này, khi thì người kia bị chém. Hãy mạnh mẽ tấn
công và phá huỷ thành. Ngươi hãy khích lệ ông ấy.”
Vợ ông Urigia nghe tin
ông Urigia, chồng mình, đã chết, thì làm ma cho chồng. Khi tang lễ đã qua, vua
Đa-vít sai người đi đón nàng về nhà mình. Nàng trở thành vợ vua và sinh cho vua
một con trai. Nhưng hành động của vua Đavít không đẹp lòng Đức Chúa.
Đavít thâm độc và tàn nhẫn
quá. Tướng Urigia tốt lành, tin người nên không hề biết mình bị sập quỷ kế của
vua và bị cô vợ cắm sừng. Trai ma, gái quỷ. Kẻ tám lạng, người nửa cân. Cả
Đavít và cô nhân tình Bát Seva đều nham hiểm, chẳng ai vừa!
Chúa Giêsu đã xác định:
“Không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ
không biết” (Mt 10:26; Lc 12:2). Vâng, “Thiên Chúa thấu suốt mọi sự.” (1 Sb
28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G
28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc
42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6)
Cái gì tốt thì đẹp, nhưng
cái gì đẹp chưa chắc là tốt. George Sand nhận xét: “Cái đẹp thấy được bằng mắt
chỉ là phép màu trong khoảng khắc; đôi mắt của cơ thể không nhất thiết là đôi mắt
của tâm hồn.”
Chính Chúa Giêsu đã xác định:
“Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người
ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra
ô uế. Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm cho con
người ra ô uế, bởi vì nó không đi vào lòng, nhưng vào bụng người ta, rồi bị thải
ra ngoài.” (Mc 7:15, 18-19) Còn Thánh Phaolô xác nhận: “Không có gì tự nó là ô
uế; có ô uế là chỉ đối với người cho nó là ô uế.” (Rm 14:14)
Thiên Chúa rất nhân từ,
Thánh Ý Ngài nhiệm mầu. Vua Đavít và bà Bát Seva ngoại tình với nhau, nhưng
chính bà này lại sinh ra con người khôn ngoan nhất là Salômôn. Và rồi vua Đavít
cũng được tha thứ tội lỗi nhờ biết thật lòng ăn năn sám hối.
Để được tha thứ và hưởng
nhờ Lòng Chúa Thương Xót, điều kiện tiên quyết là ăn năn sám hối, như Chúa
Giêsu đã kêu gọi: “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” (Mt 3:2) Vâng, tội
nào cũng ghê gớm – dù lớn hay nhỏ, dù nặng hay nhẹ. Sai lầm rất nhỏ, như chúng ta
gọi là sơ suất chứ không cố ý, cũng hoàn toàn bất xứng với Thiên Chúa, không thể
nhìn thấy Tôn Nhan Ngài chứ nói chi là được đến gần hoặc ở bên Ngài. Tuy nhiên,
Thiên Chúa vô cùng nhân từ, Ngài không chấp lách chúng ta nên Ngài sẵn sàng tha
thứ cho chúng ta. Thực sự Ngài rất muốn chúng ta được Ngài tha thứ và được sống
trường sinh với Ngài. Tuyệt vời quá, Hồng Ân Thương Xót quá lớn lao!
Thánh nhân nào cũng có một
quá khứ – ý nói về quá khứ tội lỗi, và tội nhân nào cũng có một tương lai – ý
nói hoàn thiện và nên thánh. Hãy cảnh giá c con mắt, vì ánh mắt dẫn tới ham muốn,
ham muốn dẫn tới hành động. Dù có thể có những lúc chúng ta cảm thất thất vọng
nhưng đừng bao giờ tuyệt vọng. (x. 2 Cr 4:8) Nguyện xin Thiên Chúa giữ gìn
chúng ta như thể con ngươi trong Thiên Nhãn của Ngài, và xin Ngài thương che chở
chúng ta dưới bóng Ngài mãi mãi. (Tv 17:8)
Mùa Chay nhắc nhở chúng
ta cùng thành tâm sám hối và tín thác vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa: “Lạy
Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con
đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng,
con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với
một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài.” (Tv 51:3-6)
TRẦM THIÊN THU
*********
CHUYỆN KỲ
THỊ
Kỳ thị có nhiều cấp độ,
đôi khi rất khó có thể nhận ra vì quá tinh vi. Kỳ thị trong xã hội thì đã rõ,
nhưng người ta còn kỳ thị vì khác tôn giáo, thậm chí người ta vẫn tỏ ra quan
liêu và kỳ thị ngay trong những người cùng tôn giáo vì cho rằng chức vụ này
“cao” hoặc “thấp” hơn chức vụ nọ. “Cao” hơn thì có “quyền” hơn. Việt ngữ gọi là
“quyền hành.” Hay thật! Cũng chỉ vì có “quyền” nên người ta cậy “thế,” rồi
ngang nhiên “hành” người khác!
1. KỲ THỊ
LÀ GÌ?
Kỳ thị là phân biệt cái
này với cái khác, nhưng “phân biệt” ở đây thường mang nghĩa tiêu cực, nghĩa xấu,
nhất là khi nói về việc phân biệt giới tính, phân biệt người khuyết tật, phân
biệt giai cấp, hoặc phân biệt chủng tộc.
Kỳ thị chủng tộc là phân
biệt người miền này với người miền khác, dân tộc này với dân tộc khác. Kỳ thị
chủng tộc là khi bạn bị coi thường hoặc khinh miệt vì bạn là người thuộc dân tộc
nào đó. Đôi khi, sự đối xử bất công này có thể trái ngược với pháp luật, tức là
phạm pháp.
Không ai có quyền khinh
miệt ai vì ai cũng giống nhau về nhân vị, nhân phẩm, và nhân quyền – nghĩa là
hoàn toàn bình đẳng. Vì vậy, trước mặt Thiên Chúa thì ai cũng như ai, mọi người
đều là những tội nhân mà thôi, chẳng ai hơn hoặc kém ai, thế nên chẳng ai có lý
do gì mà kỳ thị người khác!
Bạn có thể bị kỳ thị nếu
bạn không được nhận vào làm việc ở một nơi nào đó vì người ta nói bạn “không
thích hợp” chỉ vì lý do nào đó, thậm chí chỉ là lý do “ngoại hình.” Nếu bạn là
nạn nhân của việc kỳ thị chủng tộc, bạn có thể đệ đơn lên Ủy ban Chống Kỳ thị
Chủng tộc Queensland (Anti-Discrimination Commission Queensland, gọi tắt là
ADCQ, đạo luật này có từ năm 1991, có các văn phòng tại Brisbane, Rockhampton,
Townsville và Cairns).
2. KỲ THỊ
LÀ PHẠM PHÁP
Luật ADCQ nói rằng đối xử
bất công là phạm pháp. Đôi khi kỳ thị (nói chung) xảy ra không rõ ràng, nghĩa
là chỉ gián tiếp. Đồng ý là có người “hợp” với mình, có người không “hợp,”
nhưng “không hợp” không có nghĩa là chúng ta có thể đối xử bất công với người
đó. Cùng làm một công việc, nếu bạn được trả lương ít hơn người khác, đó là bạn
bị kỳ thị.
Gièm pha, nói xấu, nói
hành người khác là ghét người khác, tức là kỳ thị. Kỳ thị có thể là lời nói, cử
chỉ, thái độ, hành động, ánh mắt,… thậm chí có thể là “ngòi bút” khi viết ra những
điều nguyền rủa hoặc phỉ báng để làm mất phẩm giá của người khác. Thiếu công
tâm trong khi nhận xét người khác cũng là kỳ thị, quấy nhiễu người khác cũng là
kỳ thị, coi thường người khác cũng là kỳ thị. Nói chung, kỳ thị có thiên hình vạn
trạng.
3. KỲ THỊ
LÀ PHẠM TỘI
Bất cứ ai cũng có thể là
người kỳ thị hoặc bị kỳ thị. Muốn tránh kỳ thị thì phải có lòng yêu thương thực
sự.
Trong Mười Điều Răn mà
Thiên Chúa truyền tuân giữ, điều răn thứ Năm (chớ giết người) và điều răn thứ
Tám (chớ làm chứng dối) có liên quan động thái kỳ thị: Vì thiếu lòng yêu thương
nên người ta mới kỳ thị, và vì kỳ thị nên người ta mới “giết người” hoặc “làm
chứng dối.” Đó là vi phạm Thánh Luật của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã cảnh báo:
“Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy
nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng
nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 18:10)
Đức Giêsu còn kể một dụ
ngôn rất điển hình và khá phổ biến trong chúng ta, nhất là với một số người tự
hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác:
Có hai người lên đền thờ
cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người
Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con
không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế
kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của
con.” (Lc 18:11-12) Đó là lời cầu nguyện kiêu căng, ngạo mạn, và ích kỷ!
Còn người thu thuế thì đứng
đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa: “Lạy
Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18:13) Đó là lời cầu nguyện
khiêm nhường.
Hai con người với hai động
thái trái ngược. Nhưng hai dạng này luôn tồn tại trong thế giới loài người xưa
nay.
Chúa Giêsu quả quyết:
“Tôi nói cho các ông biết: người này (người thu thuế), khi trở xuống mà về nhà,
thì đã được nên công chính rồi; còn người kia (người Pharisêu, người giả hình)
thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được
tôn lên.” (Lc 18:14)
Chúng ta đừng tưởng Chúa
Giêsu nói tới người Pharisêu chứ không hề nói mình, vì chúng ta vẫn làm những
việc đạo đức như đi đọc kinh, tham dự Thánh lễ, tham dự các giờ phụng vụ, đi
làm từ thiện,… thế nhưng liệu những việc đó có thực sự vì mến Chúa và yêu người
hay không mới là điều quan trọng. Hãy cảnh giác, vì đôi khi chúng ta có thể kỳ
thị nhau ngay trong lời cầu nguyện hoặc trong những việc đạo đức!
Khiêm nhường là nền tảng
của mọi nhân đức. Nhưng RẤT KHÓ SỐNG KHIÊM NHƯỜNG. Thế nên Thánh Giacôbê nhắc
nhở: “Anh em hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa và Người sẽ cất nhắc anh em lên.”
(Gc 4:10) Thánh Phaolô xác định: “Chỉ có MỘT Chúa, MỘT niềm tin, MỘT phép rửa,”
(Ep 4:5) thế thì không ai có thể viện bất kỳ lý do nào để mà kỳ thị người khác.
Có gì sai trái khi người
này không thích người khác?
Có thể bạn đã nghe câu
châm ngôn này: “Tôi không phải ưa thích bạn, nhưng tôi phải yêu thương bạn.”
Các Kitô hữu không có quyền chọn lựa trong hoạt động yêu thương. Chúng ta phải
yêu thương mọi người, kể cả những người khác mình, thậm chí còn phải yêu thương
kẻ thù.
“Ưa thích” phải xử lý với
sự quý mến ưu tiên, chúng ta thu hút vào một điều, một hoạt động hoặc người này
hơn người kia. Thân quen là điều bình thường và tự nhiên của con người. Tuy
nhiên, hãy cẩn trọng khi chúng ta cảm thấy KHÔNG THÍCH một người nào đó.
Một người Mỹ gốc Phi đã
nhận xét: “Nếu bạn không thích tôi vì tôi ngu dốt, cũng tốt thôi. Tôi có thể đi
học. Nếu bạn không thích tôi vì tôi dơ bẩn, cũng chẳng sao. Tôi có thể tắm rửa
cho sạch sẽ. Nhưng nếu bạn không thích tôi vì màu da của tôi, thế thì bạn có vấn
đề. Vấn đề của bạn là đối với Thiên Chúa, vì Ngài dựng nên tôi như vậy.”
Bạn cần tự hỏi mình: “Tại
sao tôi không thích những người khác tôi? Có phải vì tôi có thành kiến? Có phải
vì tôi kỳ thị?” Kỳ thị chủng tộc (racism) là tin tưởng sai lầm rằng một số người
vốn dĩ cao cấp và một số người vốn dĩ hạ cấp chỉ vì dân tộc của họ. Đó là một dạng
thành kiến (preduce, bias), còn gọi là định kiến hoặc thiên kiến, có tác dụng
tiêu cực và nguy hiểm – dùng lời nói hoặc động thái nhằm hạ thấp hoặc kinh miệt
người khác, hãy tránh xa những người có óc kỳ thị hoặc dính líu tới bạo lực.
Phân biệt đối xử (discrimination) là không chấp nhận các quyền cơ bản của người
khác, đó là một hệ lụy khủng khiếp khác của chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc. Tội diệt
chủng (genocide) là dạng tồi tệ nhất của chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc. Từ thế kỷ
XX, loại tội phạm này len lỏi vào cộng đồng một cách tinh vi hơn.
Kỳ thị chủng tộc là tội
trọng. Đó là tội không yêu thương và bất công. Giáo Hội “mạnh mẽ lên án mọi dạng
phân biệt đối xử đối với người khác vì sắc tộc, màu da, điều kiện sống hoặc tôn
giáo.” (Tuyên ngôn về Mối Quan Hệ của Giáo Hội đối với các Tôn Giáo khác, số 5)
Ambrose Bierce, văn sĩ
Hoa Kỳ, định nghĩa thành kiến là “ý kiến vớ vẩn không có ý nghĩa rõ ràng về sự ủng
hộ.” Hãy kiểm tra xem tại sao bạn không thích người nào đó. Nếu đó là vấn đề của
óc thiển cận, bạn có thể thay đổi. Hãy nỗ lực tìm hiểu để nhận biết và hòa đồng
với mọi người, nhất là những người không cùng chủng tộc, không cùng tôn giáo,
không cùng quan điểm, không cùng trình độ,… Hãy nhớ rõ ràng rằng CHỈ CÓ MỘT CHỦNG
TỘC, đó là NHÂN LOẠI, là LOÀI NGƯỜI, là con cái của Thiên Chúa.
Lạy Chúa,
xin giúp chúng con sống hòa đồng với nhau trong tình huynh đệ hiệp nhất với
Chúa Ba Ngôi, như Chúa Giêsu mong ước cho mọi người hoàn toàn “nên một.” (Ga
17:21-23) Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của
chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét