CHÚC TẾT CHÚC TẾT CHÚC TẾT
Thứ
năm - 19/01/2017
Xuân về, Tết đến, không
thể không đề cập lời chúc Tết. Những ngày cuối năm, tôi chợt nhớ tới thi phẩm
“Chúc Tết”, một bài thơ Xuân nổi tiếng của cụ thi sĩ Tú Xương (Trần Tế Xương,
1870-1907), một “chuyên gia” trào lộng, nhưng cuộc đời lại quá đỗi lận đận, đời
đen như mõm chó, như trong bài “Thi Hỏng”, ông đã than thở:
Mai không tên tớ, tớ đi
ngay
Giỗ Tết từ đây nhớ lấy
ngày
Học đã sôi cơm nhưng chửa
chín
Thi không ăn ớt thế mà
cay!
Có lẽ ít người không nghe
nói tới ông. Dù không biết ông thì cũng vẫn “dính” tới ông, vì giới học sinh –
sinh viên vẫn thường khôi hài mỉa mai: “Học hành thi cử làm chi – Tú Xương còn
rớt huống chi là mình”.
Tên thật của ông là Trần
Duy Uyên, tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh. Ông sinh ngày 5-9-1870 (ngày
10 tháng 8 năm Canh Ngọ), ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định (sau đổi
thành phố Hàng Nâu, nay là phố Minh Khai, phường Vị Xuyên, TP Nam Định). Ông mất
ngày 29-1-1907.
Cả trăm năm rồi, thân xác
thi sĩ Tú Xương đã nát với cỏ cây, nhưng sự nghiệp văn chương của ông vẫn như một
chàng trai căng tràn sức sống, như một cô gái xinh xắn tươi đẹp, bất chấp mọi
thử thách thời gian. Người ta tin rằng, khi viếng cụ Tú Xương, cụ Nguyễn Khuyến
đã làm hai câu thơ này:
Kìa ai chín suối xương
không nát
Có lẽ ngàn thu tiếng vẫn
còn
Trong các tài liệu về Tú
Xương đều không thấy có hình ảnh, nhưng dáng hình ông được người bạn học là Hạc
Phong Lương Ngọc Tùng mô tả rõ trong một bài thơ:
Cùng làng, cùng phố, học
cùng trường
Nhớ rõ hình dung cụ Tú
Xương
Trán rộng, tai dày, da tựa
tuyết
Mồm tươi, mũi thẳng, mắt
như gương
Tiếng vàng sang sảng ngâm
thơ phú,
Gót ngọc khoan khoan dạo
phố phường
Mấy chục năm trời đà vắng
bóng
Nghìn năm còn rạng dấu
thư hương
Chắc hẳn Tú Xương là người
đã “khác người” ngay từ thuở thiếu thời. Ông thi đi thi lại, thi tới thi lui,
thi lên thi xuống, mãi mới đậu, tính ra có tới 8 lần: Bính Tuất (1886), Mậu Tý
(1888), Tân Mão (1891), Giáp Ngọ (1894), Đinh Dậu (1897), Canh Tý (1900), Quý
Mão (1903), và Bính Ngọ (1906). Tuy nhiên, không ai dám nói ông không có tài. Số
phận hoặc số kiếp chẳng ai hiểu nổi, như tục ngữ Việt Nam nói: “Kẻ ăn không hết,
người lần không ra”.
Tú Xương là một nghệ sĩ
đích thực và chân chính, đồng thời cũng là một nhà trí thức phong kiến. Ông thuộc
loại nhà Nho “dài lưng tốn vải”, có lẽ số phận lận đận nên ông cũng đầy “chất”
ngông cuồng và ngang bướng. Người giỏi mà không được ai hiểu, thậm chí còn bị
người ta hiểu lầm thì buồn lắm. Tú Xương “nóng gáy” lắm, như trong bài thơ “Hỏi
Ông Trời”, ông thẳng thắn nhưng cũng rất chua chát, mỉa mai:
Ta lên ta hỏi ông trời:
Trời sinh ta ở trên đời
biết chi?
Biết chăng cũng chẳng biết
gì:
Biết ngồi Thống Bảo, biết
đi ả đầu
Biết thuốc lá, biết chè
tàu
Cao lâu biết vị, hồng lâu
biết mùi
Mãi đến khoa Giáp Ngọ
(1894) ông mới đậu tú tài (24 tuổi), mà là lần thi tú tài thứ tư mới đậu, thế
nhưng lại chỉ là “tú tài thiên thủ” (tức là lấy thêm, dạng “đậu vớt” ngày nay).
Sau đó, ông không sao đậu được cử nhân, mặc dù vẫn kiên trì theo đuổi. Khoa Quý
Mão (1903), ông đổi tên Trần Tế Xương thành Trần Cao Xương cho đời bớt đen đủi,
nhưng rồi hỏng vẫn hỏng, rớt cứ rớt, ông vừa đau đời vừa phát cáu mà “hét lên”
như lời tự nguyền rủa và khinh thường người khác:
Tế đổi làm Cao mà chó thế,
Kiện trông ra tiệp, hỡi
trời ôi!
Thời xưa, cái bằng tú tài
thuộc loại dang dở dở dang (tú tài không được thi Hội, cử nhân mới được thi, tú
tài không được bổ quan, cử nhân mới được bổ). Nếu đậu tú tài, muốn đậu cử nhân
thì phải đợi 3 năm sau mới co dịp thi lại. Thật khó khăn, vì thời gian cứ trôi
đi theo tuổi đời, mà người ta chỉ có một thời thôi!
Số phận ông hẩm hiu, buồn
lắm nhưng biết sao được. Vì thế, ông thấy “tội nghiệp” người vợ lắm, nhưng cũng
chỉ biết làm thơ tặng vợ mà thôi. Trong bài “Thương Vợ”, ông mô tả sự chịu khó
của vợ và ông tự trách mình:
Quanh năm buôn bán ở mom
sông
Nuôi đủ năm con với một
chồng
Lặn lội thân cò khi quãng
vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò
đông
Một duyên hai nợ âu đành
phận
Năm nắng mười mưa dám quản
công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như
không!
Phải công nhận là bà Tú
Xương ngoan hiền thật, mà có vợ hiền là “giàu có” rồi. Hai ông bà Tú thật đáng
thương! Ông trân trọng vợ và biết ơn vợ, nhưng chính cuộc đời ông lại “vô
duyên” hết sức, không thể làm gì cho vợ bớt khổ. Ông liền làm bài “Văn Tế Sống
Vợ” để “cúng sống” vợ hiền:
Con gái nhà dòng, lấy chồng
kẻ chợ
Tiếng có miếng không, gặp
chăng hay chớ
Mặt nhẵn nhụi, chân tay
trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng lùn?
Người ung dung, tính hạnh
khoan hoà, chỉ một nỗi hay gàn hay dở!
Đầu sông bãi bến, đua tài
buôn chín bán mười
Trong họ ngoài làng, vụng
lẽ chào dơi nói thợ
Gần xa nô nức, lắm gái
nhiều trai
Sớm tối khuyên răn, kẻ thầy
người tớ
Ông tu tác cửa cao nhà rộng,
toan để cho dâu
Anh lăm le bia đá bảng
vàng, cho vang mặt vợ
Thế mà:
Mình bỏ mình đi, mình
không chịu ở
Chẳng nói chẳng rằng,
không than không thở.
Hay mình thấy tớ: nay
Hàng Thao, mai phố Giấy mà bụng mình ghen?
Hay mình thấy tớ: sáng
Tràng Lạc, tối Viễn Lai, mà lòng mình sợ?
Thôi thôi
Chết quách yên mồ
Sống càng nặng nợ
Chữ nhất phẩm ơn vua vinh
tứ, ngày khác sẽ hay
Duyên trăm năm ông Nguyệt
xe tơ, kiếp này đã lỡ
Mình đi tu cho thành tiên
thành phật, để rong chơi Lãng Uyển, Bồng Hồ
Tớ nuôi con cho có rể có
dâu, để trọn vẹn đạo chồng nghĩa vợ
Số phận thế thì biết thế
thôi. Thế thì tiêu, mà tiêu thì thôi! Mỗi người đều có một số phận riêng, đừng
thấy người thua kém mà khinh thường, ghét bỏ, hoặc xa lánh. Tục ngữ Việt Nam
cũng đã nhắc nhở chúng ta phải luôn coi chừng: “Cười người hôm trước, hôm sau
người cười”.
Xuân về, Tết đến. Cái gì
đến sẽ đến, cái gì qua sẽ qua. Cái gì không là của mình thì cố gắng thế nào
cũng không đạt được, nhưng cái gì là của mình thì tự nhiên sẽ tới. Ăn Tết hoặc
vui Xuân thì cũng chỉ đến thế, có chăng là thêm miếng ăn khác ngày thường, mặc
chiếc áo mới hơn một chút,… Thế thôi. Chứ ăn nhiều lại sinh bệnh, vui quá lại
sinh tật. Cái nào cũng nguy hiểm.
Đón Xuân và mừng Tết thú
vị và an toàn nhất có lẽ là sử dụng “món ăn tinh thần”. Vậy chúng ta hãy cùng
nhau đọc lại thi phẩm trào phúng CHÚC TẾT của cụ thi sĩ Tú Xương cho vui cửa
vui nhà. Cái cười trào phúng đầy mỉa mai nhưng có lẽ đó mới là cái cười thâm
thúy, cái cười sâu lắng, cái cười đau đáu, cái cười chảy nước mắt, cái cười buốt
lòng, cái cười thấu tim, cái cười đích thực,… Nhờ vậy mà có thể xem lại chính
mình mà chấn chỉnh cho phù hợp – với chính mình, với người khác, với xã hội, với
cộng đồng.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc
nhau:
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu
râu
Phen này ông quyết đi
buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa
giã trầu
Lẳng lặng mà nghe nó chúc
giàu:
Trăm, nghìn, vạn mớ để
vào đâu?
Phen này, ắt hẳn gà ăn bạc
Đồng rụng, đồng rơi, lọ
phải cầu
Lẳng lặng mà nghe nó chúc
sang:
Đứa thì mua tước; đứa mua
quan
Phen này ông quyết đi
buôn lọng
Vừa bán vừa la cũng đắt
hàng.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc
con:
Sinh năm đẻ bảy được
vuông tròn
Phố phường chật hẹp, người
đông đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non
Bắt chước ai ta chúc mấy
lời
Chúc cho khắp hết ở trong
đời
Vua, quan, sĩ, thứ, người
muôn nước
Sao được cho ra cái giống
người
Trong không khí mát mẻ của
mùa Xuân, với sự nhộn nhịp của phố thị, làng xóm, hòa theo sự náo nức của lòng
người, hài hòa với muôn vật, nhất là kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh,
chúng ta cùng chân thành chúc nhau:
Đón Tết Hồng Ân, cầu luôn
tin Đức Chúa
Mừng Xuân Đinh Dậu, chúc
mãi ấm Gia Đình
Đặc biệt nhất là chúc
nhau bằng lời chúc của Đức Giêsu Kitô: “Bình an cho anh em” (Ga 20:19). Vì
chính Ngài cũng đã vừa căn dặn vừa truyền lệnh: “Vào nhà nào, anh em hãy chào
chúc bình an cho nhà ấy” (Mt 10:12). Thiết tưởng, đó mới là lời Chúc Tết tuyệt
vời nhất cho mùa Xuân này!
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét