NƯỚC (H2O) NƯỚC (H2O)
Nước là chất lỏng không mầu,
không mùi có ở trạng thái tự nhiên trong lòng đất, ao hồ, sông, biển. Thực phẩm
như rau trái, thịt cá cũng có một lượng nước đáng kể.
Về phương diện dinh dưỡng,
nước là chất tương đối quan trọng hơn cả trong sáu nhóm chất dinh dưỡng cần cho
sự sống của con người. Ta có thể nhịn ăn vài tháng nhưng không có nước thì chỉ
mươi ngày là có nguy cơ tử vong.
Thành phần hóa học
Về
cấu tạo hóa học, nước gồm hai phân tử Hydrogen và một phân tử Oxygen.
Thực ra, nguồn nước trong
tự nhiên không hoàn toàn tinh khiết, mà luôn có pha lẫn một số chất khác. Tùy
theo mức độ hiện diện của các chất này mà ta có nguồn nước mềm hay nước cứng:
*Nước cứng
(Hard water) là nước có nhiều tạp chất như calci, magnesium, sắt,
iod.
Nước cứng để yên thường lắng
xuống nhiều cặn, có thể làm nghẹt ống dẫn nước, khi nấu nướng có thể để lại chất
lắng trong nồi hoặc khi giặt rửa với xà
bông thì không xủi bọt và thường để lại vết trắng trên quần áo.
Calci trong nước cứng đôi
khi cung cấp tới 20% nhu cầu hàng ngày. Vì thế, dân chúng sống ở vùng nước cứng
thường có bộ xương cứng chắc hơn.
*Nước mềm
(Soft water) là nguồn nước tương đối ít tạp chất, có một ít natri,
muối khoáng. Nước mềm không để lại cặn và khi dùng giặt rửa với xà bông thì sủi
bọt nhiều.
Nguồn gốc nước uống
Nguồn nước uống có thể là
nước ngầm dưới đất hoặc trong sông, hồ, suối... Tùy theo phẩm chất, nước uống
có thể dùng ở dạng tự nhiên hay đã được chế biến.
a-Nước
thiên nhiên:
Nước có thể bị ô nhiễm với
cặn bã sinh vật, thảo mộc, hóa chất trừ sâu, phân bón, chất thải kỹ nghệ và làm
thay đổi mùi vị cũng như độ trong suốt của nước.
Nước cần được khử trùng bằng
chlor, đun sôi, hay lọc để diệt các vi sinh vật gây bệnh. Thông thường nhất là
vi khuẩn Giardia Lamblia có nhiều trong nước suối, nước hồ, đôi khi vẫn còn sống
sót dù đã qua khử trùng. Vi khuẩn này gây bệnh tiêu chẩy, đau bụng, mệt mỏi, ăn
mất ngon.
Tại nhiều quốc gia, nước
được tăng cường chất fluor để ngừa hư răng.
Sự fluor hóa được áp dụng
đầu tiên vào năm 1945 tại thành phố Grand Rapides bên Hoa Kỳ và đã dẫn đến nhiều
ý kiến trái ngược về sực có ích hoặc không có ích của nước có bổ sung fluor.
Nhưng kể từ ngày bổ sung
fluor, tỷ lệ hư răng giảm xuống. Ngày nay fluor còn được cho thêm trong kem
đánh răng hoặc viên để uống.
Các trường Y Nha khoa,
các hiệp hội y học đều hỗ trợ và khuyến khích sự bổ sung khoáng fluor này.
Nhưng nếu fluor quá cao
thì lại không tốt cho răng.
b- Nước đóng chai:
Ngoài nước diệt trùng bằng
chlor, còn có nước đóng chai. Dạng nước này được khử trùng bằng chất ozone, một
loại oxy mạnh (O3), đồng thời được pha thêm carbon dioxide và bổ sung một số
khoáng chất. Do đó, nước đóng chai có mùi vị hấp dẫn hơn và cũng tốt hơn cho cơ
thể. Dạng nước này rất tiện lợi nhưng giá thành khá cao so với nước thiên
nhiên. Ngoài ra người ta cũng đóng chai
các nguồn nước khoáng trong tự nhiên có chứa nhiều khoáng chất quý giá có lợi cho
sức khỏe, chẳng hạn như nước khoáng Kim Bôi (Hòa Bình), nước khoáng Bang (Quảng
Bình), nước khoáng Thạch Bích (Quảng Ngãi), suối khoáng Hội Vân (Bình Định),
Vĩnh Hảo (Bình Thuận), Dục Mỹ (Nha Trang, Khánh Hòa)...
c-
Nước ngọt có gas.
Kỹ nghệ sản xuất nước ngọt
có gas cung cấp các loại nước ngọt có hương vị khác nhau nhưng nói chung đều bổ
sung vào nước đã diệt trùng các chất như đường, chất tạo ga (carbonat) và các
chất phụ gia tạo hương vị như caffein, caramel, chất tạo mầu hóa học, nước trái
cây.
Sự tiêu thụ nước ngọt có
ga ngày một gia tăng và là mối quan tâm của các nhà dinh dưỡng. Đã có nhiều
nghiên cứu cho là dùng nhiều nước ngot sẽ đưa tới phì mập, nhất là ở trẻ em.
Ngoài các loại nước uống,
rau, trái cây và một số thực phẩm cũng
cung cấp một lượng nước đáng kể. Có loại rau trái chứa tới trên 90% nước.
Sau đây là tỷ lệ nước trong một số thực phẩm:
Cần tây: 95%
Nấm 92%
Dưa hấu 92%
Rau broccoli 91%
Trái táo 84%
Nho 81%
Một điểm đặc biệt là nước
cung cấp từ rau trái có nhiều khoáng chất hữu cơ mà cơ thể ta rất cần.
Vai trò của nước trong cơ thể
Nước chiếm khoảng 65% tổng
số trọng lượng cơ thể. Một người cân nặng 60kg (khoảng 130 lb) có trên 45 kg (
gần 100lb) nước.
Tỷ lệ nước còn tùy vào độ
tuổi: càng ít tuổi thì tỷ lệ nước nước càng cao. Bào thai 5 tháng có 85% nước,
trẻ sơ sinh có 75%, và khi trưởng thành còn 65%.
Nhu cầu nước cũng cao hơn
ở trẻ em so với người lớn tuổi.
Nước trong cơ thể phân phối
theo hai khu vực chính:
1-Trong
các tế bào chiếm từ 65% tới 80%;
2-Ngoài
tế bào, như trong huyết tương (4%); ruột, bao tử (15%), ở mắt,
não, khớp xương (2%).
Mỗi thành phần cơ thể lại
có một tỷ lệ nước khác nhau tùy theo nhu cầu riêng của thành phần đó. Trong nước
miếng 95%, dịch bao tử 95.5%, não có 86%
nước, thận có 83%; xương có 22%; cơ tim có 79% nước.
Bắp thịt có nhiều nước
hơn tế bào mỡ. Cho nên người có bắp thịt nở nang thì có nhiều nước hơn người
béo phì. Và khi tế bào mỡ lên cao thì nước giảm xuống.
Chỉ cần thiếu hoặc dư nước
chừng vài phần trăm là đã có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Nếu nước trong cơ thể
giảm đến 20% thì tử vong có thể xẩy ra.
Phần lớn nước thừa được
ra trong nước tiểu, số còn lại thoát ra trong mồ hôi, hơi thở, phân.
Khi cơ thể bình thường,
lượng nước tiêu thụ cân bằng với nước phế thải khỏi cơ thể. Vì thế, khi uống nước
nhiều thì ta sẽ đi tiểu nhiều và khi giảm uống nước, thì nước tiểu sẽ ít đi.
Trung bình một ngày người
lớn cần bổ sung khoảng từ 2 tới 2.5 lít rưỡi nước theo đường ăn uống.
Nước được phân phối ở nhiều
vùng khác nhau trong cơ thể, nhưng liên tục luân lưu qua sự thẩm thấu và hòa
tan. Nước đưa vào cơ thể được ruột non hấp thụ, chuyển vào máu rồi từ đó được
đưa đi khắp các mô, tế bào.
Nước có một số nhiệm vụ như:
a-Nước cần cho sự sống của
mọi tế bào qua việc chuyên chở chất bổ dưỡng,
chuyển hóa thức ăn và bài tiết những
chất cặn bã của thức ăn cũng như từ các phản ứng sinh hóa học như dioxid
carbon, ure, ammoniac.
b-Nước giữ nhiệt độ cơ thể
bình thường tương tự như nước chứa trong bình tản nhiệt xe hơi. Chẳng hạn khi
nhiệt độ trong cơ thể lên cao, vì nhiễm trùng sốt, vì đi trong nắng nóng, da sẽ
đổ mồ hôi, làm giảm nhiệt độ trong người;
c- Nước làm chất “bôi
trơn” để giảm cọ xát trong sự vận động các khớp xương;
d- Nước giúp các bộ phận cơ quan trong cơ thể hoạt động
hữu hiệu và làm “chất đệm” để tránh sự cọ xát giữa cơ quan này với cơ quan
khác;
e-Nước là môi trường
trung gian qua đó cả ngàn phản ứng hóa học cần cho sự sống liên tục diễn ra
trong cơ thể;
g- Nước chứa đựng nhiều
khoáng, chất dinh dưỡng, kích thích tố, các diêu tố, tất cả theo một tỷ lệ cân
bằng mà nếu có xáo trộn thì bệnh tật sẽ xẩy ra;
h- Nước giúp cơ thể loại
chất phế thải, cặn bã từ sự tiêu hóa cũng như từ các phản ứng sinh hóa học như
phân, carbon dioxide, urea, ammonia;
i-Nước là thành phần cấu
tạo của mọi tế bào, mô và các chất dịch
của cơ thể. Nếu không có nước thì sẽ không có nước miếng, dịch vị bao tử,
mật để tiêu hóa và hấp thụ chất dinh dưỡng.
Bởi vậy, nước rất cần cho
cơ thể cho dù tự nó không cung cấp năng lượng. Điều may mắn là nước có sẵn
trong tự nhiên ở khắp mọi nơi. Cơ thể chỉ
thiếu nước khi ta thiếu hiểu biết và không quan tâm đến nhu cầu này Trong thực
tế, không ít người đã vô tình không uống đủ lượng nước mà cơ thể cần./.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét