SINH TỐ HÒA TAN TRONG NƯỚC
SINH TỐ B 1
Sinh tố B1 (thiamine) gắn
liền với một bệnh nan y mà người Trung Hoa đã biết tới cách đây nhiều ngàn năm.
Đó là bệnh tê phù do suy nhược hệ thần kinh (Beriberi) vì ăn gạo không có cám.
Tên Beriberi có nghĩa là: “Tôi không thể” (I
cannot), ý nói khi mắc chứng nan y này
thì người bệnh không thề cử động được.Thực vậy, thiếu sinh tố B1, bệnh nhân nằm
thở dốc trên giường. Nhưng chỉ với một mũi tiêm Thiamin là bệnh nhân hồi phục
ngay.
Thiamine cần thiết cho mọi
sinh động vật.
Công dụng
Sinh tố B1 có nhiều công
dụng như sau:
-
Giữ vai trò quan trọng trong sự chuyển hóa
các chất dinh dưỡng của cơ thể.
-
Giúp các tế bào chuyển carbohydrat thành
năng lượng.
-
Giúp cơ thể chuyển glucose thành chất béo.
-
Rất cần thiết cho các chức năng của tế bào
thần kinh não bộ và tim. Não bộ chỉ sử dụng
nguồn năng lượng duy nhất từ glucose, nên cần Thiamin. Tim suy yếu khi
thiếu Thiamin.
-
Tạo cảm giác ăn ngon miệng và cần thiết
cho sự tiêu hóa, sự tăng trưởng cơ thể và duy trì sức mạnh của cơ thịt.
Nguồn cung cấp
Sinh tố B1 có trong nhiều
thực phầm như mầm lúa mì, thịt nạc (nhất là thịt heo), cá, mầm đậu nành, hạt hướng
dương, gạo lức, lòng đỏ trứng, gan...
Sinh tố B1 tổng hợp ở dạng
thiamine hydrochloride là một loại bột kết tinh mầu trắng, hòa tan trong nước
được bán trên thị trường với các tên biệt dược như là Benerva, Betabian,
Beneurin...
Sự thu hái, tồn trữ, biến chế thực phẩm có ảnh
hưởng tới số lượng thiamine.
Nhiệt độ cao, sự oxy hóa,
việc đóng hộp thực phẩm đều làm giảm lượng sinh tố B1. Gạo xay sạch vỏ cám, đường
tinh chế cũng mất đi gần hết sinh tố này.
Khi ăn sống (gỏi) các hải
sản như cá, tôm, sò cũng làm cho thiamine bị phân hóa và mất tác dụng.
Uống nhiều nước trà hoặc
nhai lá trà, uống nhiều rượu cũng ngăn chặn sự hấp thụ thiamine.
Sinh tố B 1 rất kỵ sức
nóng cho nên khi nấu thực phẩm thì sinh tố B 1, vì hòa tan trong nước, dễ bị mất
mát trong nước sôi.
Thiamine được ruột non hấp
thụ, chuyển vào máu và được tồn trữ trong gan, thận, tim, não bộ, cơ thịt. Vì
hòa tan trong nước nên thiamine thừa thải ra theo nước tiểu.
Nhu cầu
Mỗi ngày nên tiêu thụ khoảng
1-3mg sinh tố B. Khi chế độ giầu carbohydrat thì có thể gia tăng nhiều hơn.
Thiếu sinh tố B 1 thì con
người trở nên mệt mỏi yếu đuối, kém tập trung, ăn mất ngon, đau bụng, buồn nôn,
đầu ngón tay tê dại, tim đập nhanh, thậm chí có thể bị suy tim.
Thiếu B1 lâu ngày có thể
đưa đến bệnh Tê Phù (beriberi), với viêm giây thần kinh ngoại vi, mất cảm giác,
gầy mòn, sưng phù cơ thể, suy tim.
SINH TỐ B 2
Sinh tố B2 (Riboflavin)
hiện diện trong hầu hết các tế bào của cơ thể.
Ở trạng thái thiên nhiên,
B2 là những tinh thể mầu trắng, không mùi, vị đắng, hòa tan trong nước, tương đối
chịu nhiệt nhưng dễ bị ánh sáng phân hủy.
Công dụng
Cũng như thiamin, sinh tố
B2 giúp chuyển hóa đường bột, chất đạm và chất béo thành năng lượng. Ngoài ra,
sinh tố này còn có các chức năng như:
-
Tác động qua lại với các loại sinh tố B
khác và giữ vai trò thiết yếu trong sự chế tạo hồng huyết cầu và sự tăng trưởng
của cơ thể;
-
Giữ vai trò quan trọng để ngăn ngừa chứng
đục thủy tinh thể của mắt;
-
Làm da, móng chân tay, tóc phát triển lành
mạnh.
-
Giúp hệ thần kinh hoạt động hoàn hảo.
Nguồn cung cấp
B 2 có trong sữa, phó
mát, thịt nạc, tim, gan, thận, trứng, quả hạch (nut), hạt ngũ cốc rau có lá màu
lục và các loại rau đậu (legumes).
Nhu cầu
Mỗi ngày cơ thể nên có
khoảng 1.4 mg sinh tố B 2.
Phụ nữ mang thai hay đang
uống thuốc viên ngừa thai, người nghiện rượu, ma túy, hoặc uống nhiều cà phê
thì cần nhiều B 2 hơn .
Thiếu sinh tố này đưa đến
cơ thể mệt mỏi, vết thương chậm lành, thủy tinh thể đục, mắt cay, không chịu được
ánh sáng mạnh; lưỡi đau, môi nứt nẻ, da khô, tóc dễ gẫy, móng tay móng chân
ròn.
Thừa sinh tố B2 không gây ngộ độc.
Sinh tố B2 được hấp thụ ở
ruột, chuyển sang máu, dự trữ rất ít ở gan, thận. Lượng sinh tố thừa được thải
ra hầu như toàn bộ, nên hàng ngày phải cung cấp đủ sinh tố này.
Sinh Tố B 3.
Năm 1730, y sĩ Tây Ban
Nha Gaspar Casal mô tả một chứng bệnh với các vết viêm loét trên da, tiêu chẩy
trầm trọng và thay đổi tính tình như cáu kỉnh, lo sợ, buồn rầu rồi đi dần tới mất
định hướng, hoang tưởng. Bệnh xuất hiện ở những người lấy ngô bắp làm thực phẩm
chính. Ông ta đặt tên bệnh là Pellagra. Trong tiếng Tây Ban Nha, pella có nghĩa
là da và agra là cáu kỉnh.
Sau đó bệnh lan tràn ra
nhiều quốc gia trồng ngô ở châu Âu, châu Phi.
Bên Hoa Kỳ, vào thời kỳ Nội
Chiến, dân chúng miền Nam chỉ có ngô để ăn,
nên cũng có nhiều người bị bệnh và thiệt mạng.
Nghiên cứu khoa học trong
những thế kỷ kế tiếp đã cho thấy rằng, ngô thiếu một chất dinh dưỡng thiết yếu
cho cơ thể. Do đó việc chọn ngô làm món ăn chính mới dẫn đến mắc bệnh Pellagra.
Chất bị thiếu chính là sinh tố B3 hay niacin, tên gọi chung cho nicotinic acid
và nicotinamide. Trong thịt động vật có nhiều chất tryptophan là tiền thân của
niacin.
Niacin là những tinh thể
không mầu, vị đắng, hòa tan trong nước, không bị phân hủy bởi nhiệt độ, ánh
sáng, acid, kiềm, và sự oxy hóa.
Công dụng
Sinh tố B3 có các công dụng
sau đây:
- Cần thiết cho sự hô hấp
của tế bào.
-
Cần thiết cho việc chuyển hóa thực phẩm thành năng lượng.
-
Giúp duy trì các chức năng của da, giây thần
kinh và hệ tiêu hóa;
-
Điều hòa lượng đường và cholesterol trong
máu.
-
Cần thiết để cơ thể chế tạo những kích
thích tố căn bản như cortisone, estrogen, progesterone, thyroxin...
Trong điều trị, đôi khi
niacin được dùng để giảm mức cholesterol trong máu, nhưng việc sử dụng phải được
bác sĩ hướng dẫn vì thuốc có nhiều tác dụng phụ khó chịu.
Nguồn cung cấp
Cơ thể có thể sản xuất
sinh tố B 3 từ chất tryptophan có trong chất đạm động vật, hoặc hấp thụ trực tiếp
sinh tố B3 có trong thực phẩm.
B 3 có nhiều trong thực
phầm giàu chất đạm như gan, thận, thịt nạc, thịt gà, cá, nấm, các loại hạt, sữa,
pho mát, ngũ cốc khô tăng cường, rau, sữa, trứng, cà phê.
Niacin tổng hợp cũng công
hiệu như dạng tự nhiên và giá thành vừa phải.
Nhu cầu
Mỗi ngày nên tiêu thụ từ
15-17 mg niacin.
Thiếu sinh tố B 3 dẫn đến
các triệu chứng giảm sinh lực, mất ngủ,
hay quên, lo âu, tâm thần căng thẳng, hay gắt gỏng, buồn chán, nhức đầu, sưng nớu
răng và chẩy máu, viêm ngứa da.
Nếu thiếu trầm trọng, có
thể mắc bệnh pellagra, với các triệu chứng như viêm da, rối loạn tiêu hóa, bồn
chồn, mất ngủ, giảm cân và ở mức độ nặng có thể mất trí nhớ.
Dùng niacin với liều lượng
quá cao (trên 3g/ngày) có thể đưa tới hại gan, viêm ngứa da, mặt đỏ bừng, cảm
giác chóng mặt. Với liều cao hơn nữa có thể làm cơ thể không hấp thụ được
carbohydrat và gây cảm giác bồn chồn, không yên...
Sinh Tố B 6.
Sinh tố B 6
(pyridoxine) rất quan trọng trong sự
chuyển hóa acid amin (chất đạm) và có
vai trò nhỏ hơn trong chuyển hóa carbohydrat, chất béo. Cơ thể càng tiêu thụ
nhiều chất đạm càng cần nhiều sinh tố B 6.
Ngoài ra, sinh tố B6 còn
có các công dụng như:
-
Giúp duy trì các chức năng bình thường của
não bộ, giúp sự chế tạo hồng huyết cầu, kháng thể, kích thích tố nữ estrogen.
Điều hòa sự sản xuất hóa chất ở não bộ kiểm
soát sự ngủ nghỉ, cảm xúc và sự hấp thụ sinh tố B 12.
- Điều trị các trường hợp thiếu máu không
đáp ứng với khoáng chất sắt.
Nguồn cung cấp sinh tố B 6 gồm có: thịt cá,
gan, thận, quả hạch, đậu, chuối, trái bơ, trứng, lúa mì. Một số vi khuẩn đường
ruột cũng tổng hợp được B6.Sinh tố B6 hòa tan trong nước, chịu đựng được với
nhiệt nhưng bị tia tử ngoại, sự oxy hóa phân hủy.
Mỗi ngày trung bình nên
tiêu thụ khoảng 2mg.
Người cao tuổi và phụ nữ
có thai hoặc đang dùng viên thuốc tránh thai có nhu cầu cao hơn. Ngoài ra, nhu
cầu cũng tăng cao theo tỷ lệ thuận với thành phần chất đạm trong bữa ăn.
Thiếu sinh tố B 6, bệnh
nhân có những bất thường như ăn mất ngon, ngủ
mê, buồn rầu, tinh thần dễ kích động, bắp thịt co rút, co giật, tê đầu
ngón tay, da khô, thiếu hồng cầu, giảm sinh lực. Các bất thường này thường thấy
ở các bệnh nhân đang dùng thuốc Isoniazid (acid nicotinic hydrazit-INH) để chữa
bệnh lao. Họ thường được chỉ định uống bổ sung từ 50 tới 100mg pyridoxine mỗi
ngày.
Liều cao sinh tố B6 (trên
10g/ngày) có thể làm cho gan tạo ra men bất thường.
Sinh Tố B 12.
Bệnh Thiếu máu ác tính
(Pernicious Anemia) là một bệnh hiểm nghèo, được bác sĩ người Anh Thomas
Addison mô tả từ năm 1849. Nhưng phải đợi tới gần một thế kỷ nghiên cứu, khoa học
mới tìm ra nguyên nhân và thuốc chữa bệnh.
Năm 1948, các khoa học
gia đã tách từ gan ra một chất mầu đỏ có công dụng trị bệnh thiếu máu ác tính
và họ đặt tên là sinh tố B12.
Điều đặc biệt là cơ thể
thực vật và động vật bậc cao không tự tổng hợp được sinh tố B12. Nhưng vào năm
1955, các nhà khoa học của Đại học Harvard đã tổng hợp được sinh tố này trong
phòng thí nghiệm.
Và ngày nay, bệnh thiếu
máu ác tính đã được điều trị khỏi bằng sinh tố B12 mà ta còn gọi là
Cyano-cobalamin.
Sự hấp thụ
B12 là sinh tố duy nhất cần
có một nhân tố nội tại (intrinsic factor) đặc biệt trong bao tử
là glycoprotein để có thể hấp thụ ở ruột. Sự hấp thụ này kéo dài cả mấy
giờ, trong khi đó các sinh tố hòa tan trong nước khác chỉ cần ít phút.
Hấp thụ sẽ giảm khi thiếu
chất glycoprotein vì một căn bệnh nào đó của bao tử, giảm chất glycoprotein ở
người cao tuổi, hoặc khi cơ thể thiếu khoáng chất sắt và sinh tố B6.
Trong thực phẩm từ động vật,
sinh tố B12 gắn liền với một đơn vị chất đạm. Khi thực phẩm vào bao tử thì
chúng tách rời ra và sinh tố B12 kết hợp với glycoprotein. Nhờ đó B12 mới được
chuyển qua ruột để hấp thụ.
Gan là cơ quan dự trữ nhiều
B12 rồi đến thận, bắp thịt, phổi. Lượng B12 thừa được thải ra ngoài theo nước
tiểu.
Công dụng
Sinh tố B 12 có các công
dụng sau:
-
Cần để tạo hồng huyết cầu từ tủy xương.
Thiếu B12, hồng cầu không trưởng thành, sẽ lớn hơn bình thường, và gây ra bệnh
thiếu máu hồng cầu to và những thương tổn đặc biệt của hệ thần kinh.
-
Duy trì tốt các tế bào thần kinh.
-
Giúp sự tăng trưởng của trẻ em;
-
Giúp sự chuyển hóa chất béo, carbohydrat
và chất đạm trong thực phẩm;
-
Làm chậm việc chuyển nhiễm HIV dương tính
sang bệnh AIDS;
-
Giảm nguy cơ gây bệnh tim
Nguồn cung cấp
Sinh tố B12 được tạo ra
nhiều nhất do các vi khuẩn đường ruột của các động vật ăn cỏ, và được kết hợp với
chất đạm của các động vật đó. Vì thế B 12 có nhiều trong gan, thận, tim, tụy tạng,
thịt bò, thịt gà. B12 cũng có trong cá, lòng đỏ trứng, sữa, pho mát, sò, cua.
Thực phẩm gốc thực vật
không có B 12, vì thế những người ăn
chay thuần túy rau trái sẽ bị thiếu B 12 và phải uống bổ sung loại sinh tố này.
Sinh tố B 12 hòa tan
trong nước, rất dễ bị phân hủy khi ở ngoài cơ thể.
Vì hòa tan trong nước,
nên khi tiêu thụ nhiều B12 thì sinh tố sẽ được nước tiểu thải ra ngoài và không
gây ra ngộ độc
Nhu cầu
Nhu cầu mỗi ngày là từ 2
tới 4 mcg. Chỉ cần ăn khoảng 100gr thịt bò đã có đủ số lượng này.
Bao tử người cao tuổi thường
tiết ra ít acid, nên nhiều vi sinh vật dễ dàng sinh sản nơi đây và tranh ăn hết
sinh tố B 12 trong bao tử. Do đó các vị này cần dùng thêm B 12.
Người cao tuổi, người ăn
chay, dân chúng các quốc gia đang phát triển (với lượng chất đạm động vật thấp
trong khẩu phần) đều có thể bị thiếu B12, nên cần dùng bổ sung.
Thiếu B12 kéo dài dẫn tới bệnh thiếu máu ác tính. Bệnh nhân ăn
không ngon, da vàng nhợt, khó thở, mất cân, viêm lưỡi, đi không vững, rối loạn
thần kinh, cáu kỉnh, buồn rầu. Nếu không chữa kịp thời có thể dẫn tới tử vong.
Điều trị rất đơn giản: chỉ cần tiêm B12 là bệnh thuyên giảm ngay.
Trái với tin tưởng của
nhiều người, khi không có bệnh mà tiêm B 12 sẽ không làm cơ thể khỏe mạnh hơn
hoặc ăn ngon miệng hơn.
Sinh
Tố B 5
Sinh tố B 5 hay acid
panthotenic acid hòa tan trong nước, có nhiều trong trứng, sữa và phó sản, cá,
rau, đậu, men, thịt nạc, bắp cải xanh, bắp xu, khoai lang.
Sinh tố B5 có các công dụng
như sau:
-
Cần thiết cho sự tổng hợp các acid béo
-
Cần cho chuyển hóa carbohydrat, chất béo,
chất đạm để tạo ra năng lượng.
-
Giúp tổng hợp các kích thích tố, kháng thể.
- Tạo
ra porphyrin, tiền thân của heme, cần cho sự tổng hợp huyết cầu tố.
-
Tạo ra hóa chất acetylcholine để điều hòa
các chức năng não bộ.
-
Giảm đau và cứng khớp xương.
-
Ngoài ra, một số ý kiến cho là sinh tố
giúp tóc giữ mầu tự nhiên.
Các nhà dinh dưỡng chưa
xác định nhu cầu hàng ngày cho sinh tố này, nhưng khuyên không nên dùng quá 4-7
mg một ngày. Nếu dùng trên 10 mg một ngày thì có thể bị tiêu chẩy.
Khi thiếu B5, có thể dẫn
đến hội chứng tiêu hóa như viêm dạ dầy-ruột, tiêu chẩy, vọp bẻ, ói mửa, kém tập
trung, hay mệt mỏi, da sừng hóa, mất sắc tố da và có thể ảnh hưởng tới tuyến
thượng thận. Trường hợp thiếu kéo dài có thể xảy ra hiện tượng suy cấp vỏ thượng
thận, giảm các chất sterol...
Ở các loài chó, chuột...thiếu
B5 làm cho màu lông bạc trắng. Nhưng ở con người thì sinh tố này cũng như các
sinh tố khác không có vai trò gì trong việc bạc tóc.
FOLACIN.
Folatin là tên gọi chung của folic acid và một
số chất có tác dụng tương tự.
Công dụng của Folatin gồm có:
-
Giúp cơ thể tạo ra purines và pyrimidines
là những chất rất cần thiết cho sự tổng hợp DNA (deoxyribonucleic acid) và RNA
(ribonucleic acid). Đây là hai nguyên tố
kiểm soát các hoạt động và tính chất di truyền của mọi tế bào. Do đó sinh tố
này cần cho sự tăng trưởng và sự phân bào.
-
Tạo ra chất đạm chứa sắt (heme) cần cho việc
sản xuất huyết cầu tố.
-
Cần cho sự tổng hợp các acid amin như tyrosine, methionine
Sinh tố này có nhiều
trong các loại thực phẩm và rất cần thiết cho phụ nữ mang thai vì nó giúp các tế
bào tang trưởng.
Nhiều nghiên cứu sơ khởi
cho thấy sinh tố này có khả năng giảm nhẹ các nguy cơ khuyết tật ở trẻ sơ sinh;
có thể giúp phòng ngừa ung thư tử cung, làm giảm nguy cơ tai biến tim.
Folacin cũng giảm nguy cơ
cơn suy tim. Đó là kết quả nghiên cứu tại trường Y khoa Phòng Ngừa Đại học
Harvard vào năm 1998.
Folacin cũng được dùng để
chữa bệnh Thiếu Máu Hồng Cầu To
(Megaloblastic anemia), ung thư máu, bệnh viêm ruột loét miệng (sprue) do thiếu
Folic acid.
Tác dụng của Folatin cần
sự hiện diện của các sinh tố B12 và C. Sinh tố C cũng bảo vệ folatin khỏi bị
oxy hóa.
Nhu cầu trung bình mỗi ngày
là 150mcg.
Nguồn cung cấp sinh tố
folic acid gồm có gan, thận, các loại rau lá lục đậm, các trái chua, đậu và rau
đậu, cám lúa mì, thịt heo, thịt gà và các loại tôm cua sò hến.
Sinh tố bị mất đi khá nhiều
khi nấu thức phẩm quá lâu, nhất là các loại rau xanh.
Nghiện rượu kinh niên là
nguyên nhân chính đưa tới thiếu Folic
acid vì rượu gây trở ngại cho sự hấp thụ và di chuyển sinh tố này từ gan ra tế
bào. Thuốc viên uống ngừa thai cũng làm giảm sự hấp thụ Folacin.
Triệu chứng thiếu sinh tố
này gồm có: khô ngứa da, môi nứt nẻ, tóc sớm bạc, thiếu máu, ăn kém ngon, mệt mỏi,
đau bụng, buồn rầu, lo lắng, giảm trí nhớ...
Sinh Tố C.
Từ những năm 1550 trước
Công nguyên, các nhà y học đã mô tả một bệnh có khả năng gây tử vong ở những thủy
thủ lênh đênh kéo dài cuộc hải hành cả dăm bẩy tháng. Thực phẩm chính của họ là
đồ khô, không trái cây, không rau tươi. Đó là bệnh Scurvy, tiếng Pháp là
Scorbut.
Bệnh có các triệu chứng
như chẩy máu và sưng ở nớu răng, chẩy máu dưới da. Kéo dài lâu ngày, bệnh nhân
có thể tử vong.
Năm 1535, nhà thám hiểm
người Pháp Jacques Cartier nhận thấy rằng thủy thủ dùng một loại nước uống của
thổ dân Gia Nã Đại thì lành bệnh. Trong nước đó có lẫn nước của trái chanh.
Vào năm 1932, sau nhiều
nghiên cứu, các khoa học gia thấy trái chanh chứa một chất có thể chữa và ngừa
bệnh Scurvy. Đó là sinh tố C, tên hóa học là Ascorbic acid.
Đến năm 1933, người ta tổng
hợp được sinh tố C.
Ngày nay sinh tố C rất phổ
biến và được nhiều người dùng thêm với nhiều mục đích khác nhau, nhất là để
phòng và chữa cảm cúm và chống sự oxy hóa trong cơ thể.
Ascorbic acid là những
tinh thể bột không mùi, màu trắng, dễ hòa tan trong nước và dễ bị phân hủy bởi
nhiệt, oxy, ánh sáng, dung dịch kiềm, đồng và sắt.
Công dụng
Sinh tố C có nhiều công dụng quan trọng trong
cơ thể con người như :
-
Duy trì các mô tiếp nối, làm mau lành các
vết thương;
-
Giúp duy trì răng lợi trong tình trạng tốt;
-
Giúp cơ thể hấp thụ chất sắt, folic acid;
-
Tăng cường khả năng miễn dịch;
-
Giảm mức cholesterol LDL trong máu, làm
thành mạch máu bền vững hơn;
-
Giúp phòng ngừa bệnh đục thủy tinh thể;
-
Làm giảm triệu chứng của cảm lạnh;
-
Là chất chống oxy hóa rất tốt
-
Giúp sự chuyển hóa chất béo, các acid amin
như tyroxine, tryptophan.
Sinh tố C hiện đang được
nghiên cứu về khả năng chống sự oxy hóa làm tổn thương tế bào.
Nhiều nghiên cứu cho thấy,
hút thuốc lá liên tục làm giảm sinh tố C trong cơ thể. Nhưng không có dẫn chứng
nào cho rằng ghiền thuốc lá cần dùng thêm sinh tố này.
Một số nghiên cứu khác
cho rằng sinh tố C dùng với liều cao (300mg một ngày) có thể kéo dài tuổi thọ,
có tác dụng chống dị ứng và loại bỏ độc
tính của dược phẩm trong cơ thể.
Nguồn cung cấp
Sinh tố C có nhiều trong
các loại trái chua như chanh, cam, trái dâu, cà chua, súp lơ xanh, khoai lang,
khoai tây, hồng qua (cantaloupe). Cá thịt và sữa có rất ít sinh tố C.
Sinh tố C trong thực phẩm
rất dễ bị phân hủy trong khi chế biến, gặt hái, nấu nướng và cất trữ. Thực phẩm
tươi nên dùng sớm hoặc cất giữ nơi nhiệt
độ lạnh, nấu với ít nước, không nấu trong nồi bằng đồng, sắt và nên ăn ngay sau
khi nấu.
Muốn duy trì sinh tố C
trong thực phẩm cất trữ bằng đông lạnh, không nên làm rã đá trước khi nấu mà chờ
cho nước sôi rồi bỏ nguyên khối thực phẩm đông lạnh vào nồi.
Nhu cầu
Mỗi ngày trung bình nên
tiêu thụ khoảng 60 mg sinh tố C.
Tình trạng thiếu sinh tố
C của cơ thể ít khi xẩy ra vì có nhiều thực phẩm chứa sinh tố C và nhiều loại nước uống cũng được bổ sung
sinh tố này.
Thiếu sinh tố C trầm trọng
có thể đưa tới bệnh Scurvy. Bệnh có các dấu hiệu như chẩy máu ở lợi, rụng răng,
dễ băng huyết, vết thương lâu lành. Bệnh thường xẩy ra khi ta không ăn rau và trái cây có sinh tố C.
Dùng sinh tố C liều cao
trên 8 gr một ngày có thể gây tiêu chảy, đau bụng, ói mửa.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét