SINH TỐ SINH TỐ SINH TỐ
Sinh tố là những chất hữu
cơ cần thiết cho sự tăng trưởng và duy trì sức khỏe cơ thể. Sinh tố góp phần điều hành chức năng của các
cơ quan, bộ phận trong người.
Tên tiếng Anh của Sinh Tố
là Vitamin, có nguồn gốc tiếng La Tinh “vita” có nghĩa là đời sống và amino là
chất dinh dưỡng cần thiết.
Hầu hết các sinh tố cần
phải được cung cấp từ thức ăn, vì cơ thể con người không thể tổng hợp được, ngoại
trừ hai sinh tố D và sinh tố K. Điều may mắn là trong thực phẩm có đủ các loại
sinh tố.
Mặc dù ta chỉ cần một lượng
sinh tố rất nhỏ nhưng lượng nhỏ đó giữ vai trò rất quan trọng cho sự sống của
cơ thể. Không có sinh tố thì những sinh vật cao cấp như loài người, không thể tồn
tại.
Sau đây là một số công dụng của sinh tố:
- Góp phần vào việc cấu tạo
tế bào máu, xương và răng.
- Điều hành có hiệu quả
những chức năng của tim và hệ thần kinh, tăng cường thị lực của mắt.
- Giúp cơ thể biến thực
phẩm thành năng lượng.
- Giữ vai trò xúc tác
trong các hệ thống sinh hóa và có nhiệm vụ biến năng lượng để giúp các tế bào
và các mô hoàn thành các chức năng rất cần thiết cho sức khỏe của con người;
- Ngoài ra, sinh tố còn
có tác dụng hỗ trợ cơ thể sử dụng các khoáng chất, chất đạm, chất bột đường
và nước.
Có 13 loại sinh tố chính.
Đó là sinh tố A, C, D, E, K và tám sinh tố thuộc nhóm B như B1 (thiamin), B2 (riboflavin),
B3 (niacin) , B5 (pantothenic acid) , B6 (pyridoxine), B12 cobalamin), folacin
(acid foli) và biotin.
Đặc biệt, sinh tố A vừa có trong các thực phẩm
từ động vật như thịt, trứng lại cũng có ở dạng
gọi là caroten trong thực vật. Khi được đưa vào cơ thể, caroten được biến
thành sinh tố A. Caroten có nhiều trong
cà rốt, rau xanh, cà chua ..
Caroten còn là một chất chống oxy hóa rất hữu hiệu.
Ngoài ra còn một số chất
không là sinh tố nhưng có các chức năng gần giống như sinh tố ( vitaminlike
substances). Chẳng hạn như bioflavonoid,
carnitine, coenzyme, inositol.
Có hai nhóm sinh tố.
Nhóm hòa tan trong chất béo như các sinh
tố A, D, E, và K và nhóm hòa tan trong nước gồm có sinh tố C và các sinh tố B.
Sự phân biệt này rất quan
trọng vì cơ thể tồn trữ sinh tố hòa tan trong chất béo ở gan và mô béo tương đối
lâu hơn, nên tình trạng thiếu hụt các sinh tố nhóm này chậm xẩy ra. Còn những
sinh tố hòa tan trong nước chỉ tồn tại một thời gian ngắn trong cơ thể và cần
được bổ sung thường xuyên để tránh các bệnh gây ra do thiếu những sinh tố nhóm
này
Đa số sinh tố rất dễ bị sức
nóng và ánh sáng hủy hoại. Do đo, trong việc tồn trữ và nấu nướng thực phẩm, một
số sinh tố bị mất đi. Sự mất mát càng lớn khi thực phẩm tiếp xúc với ánh sáng,
sức nóng hoặc không được ướp lạnh, cất giữ đúng cách.
Sinh tố hòa tan trong mỡ
béo ổn định hơn sinh tố hòa tan trong nước khi thực phẩm được nấu nướng. Ví dụ,
khi đun sôi thì lượng sinh tố hòa tan
trong nước bị phân hủy trong nước nóng, cho nên muốn duy trì lượng sinh tố này
thì không nên nấu quá lâu và chỉ nên nấu với ít nước.
Mỗi sinh tố có nhiệm vụ
riêng của nó. Trong một số trường hợp, vài loại sinh tố có tác dụng hỗ tương
nhưng không thể thay thế cho nhau.
Ví dụ:
- Sinh tố D có hiệu quả tốt hơn nếu dùng
chung với sinh tố A.
- Cặp sinh tố D và A hoạt động tốt hơn nếu
có sự hiện diện của sinh tố B;
- Sinh tố E được tăng hiệu năng khi đi
chung với cặp sinh tố D và A;
- Sinh tố C có ảnh hưởng đến tác dụng của
sinh tố A;
- Khi thiếu sinh tố B1 thì sự hấp thụ những
sinh tố khác trong cơ thể gặp trở ngại.
Mặc dầu cơ thể cần sinh tố,
nhưng sinh tố không thể thay thế thực phẩm. Nếu thay thế được thì người ta đã
không cần những bữa ăn rườm rà mà chỉ cần uống vài viên sinh tố bán trên thị
trường.
Không có thực phẩm thì
sinh tố không được cơ thể hấp thụ vào các hệ thống sinh hóa để làm nhiệm vụ biến
năng. Sinh tố không cung cấp năng lượng (calori) và không có khả năng tự nó làm
tăng trưởng cơ thể như các chất đạm, chất béo, carbohydrate, khoáng chất và nước.
Vì vai trò quan trọng của
sinh tố đối với cơ thể như đã nói ở trên, ta nên xét qua từng loại hoặc nhóm
sinh tố để biết chúng có những chức năng gì cũng như nhu cầu của chúng ta đối với
các sinh tố đó ra sao.
Sinh tố được chia ra làm
hai nhóm: nhóm hòa tan trong dầu mỡ như A,D,E và K; và nhóm hòa tan trong nước
như nhóm sinh tố B, C, Folatin..
Sinh tố hòa tan trong dầu mỡ.
Sinh Tố A
Sinh tố A hòa tan trong
chất béo và có nhiều trong thực phẩm như sữa, bơ, phó-mát, lòng đỏ trứng, gan,
dầu cá.
Một số thực vật như cà rốt, cà chua, rau xanh ...có chất
carotene hoặc tiền sinh tố A Provitamin
A và sẽ được biến thành sinh tố A khi đưa vào cơ thể.
1-Sinh
tố A.
Có nhiều hình thức sinh tố A với tác dụng hơi
khác nhau. Hai loại thông thường nhất là Retinol và Dehydroretinol.
Dehydroretinol chỉ có ở
cá nước ngọt và chim ăn cá đó nên không quan trọng lắm.
Retinol có trong dầu cá
biển, mỡ béo, gan, lòng đỏ trứng.
Sinh tố A là chữ gọi
chung cho cả hai loại.
Sinh tố A có mầu vàng nhạt,
không hòa tan trong nước nên không mất đi khi nấu nướng thực phẩm.
Sinh tố được hấp thụ ở ruột non dưới tác dụng
của mật. Sự hấp thụ có thể bị trở ngại bởi dầu khoáng chất. Dầu này không hòa
tan trong nước, thu hút sinh tố A và thải ra ngoài theo phân. Sinh tố không có
trong nước tiểu vì không hòa tan trong nước.
Trong cơ thể, sinh tố A
được dự trữ nhiều nhất ở gan, một số nhỏ ở tế bào mỡ, phổi, thận.
Công
dụng
Sinh tố A :
- Giúp mắt nhìn rõ trong
ánh sáng mờ.
- Giúp chế tạo và bảo trì
da, răng, xương, tinh trùng, những mô mềm, những màng nhầy;
- Giúp sự sinh sản được
bình thường. Mang thai mà thiếu sinh tố này trong ba tháng đầu có thể bị sẩy
thai.
- Có thể có tác dụng ngăn
chận sự phát triển của tế bào ung thư.
- Các cuộc nghiên cứu mới
nhất cho thấy sinh tố A có khả năng giúp trẻ em chống nhiễm độc, giúp thai nhi tăng trưởng tốt.
Nguồn
cung cấp
Sinh tố A có nhiều trong các thực phẩm gốc động
vật như dầu mỡ cá thu, gan, cật, sữa, lòng đỏ trứng và các thực phẩm chế biến từ
sữa như cà rem, phó mát. Gan bò nuôi bằng cỏ xanh và bò lớn tuổi có nhiều sinh
tố A hơn bò non và bò ăn cỏ khô. Dầu gan cá là nguồn cung cấp sinh tố A nhiều
nhất.
Sinh tố A tổng hợp cũng
công hiệu và an toàn như sinh tố từ động vật nhưng rẻ tiền hơn.
Nhu
cầu
Nhu cầu mỗi ngày là
900mcg cho đàn ông, 700mcg cho đàn bà. Tối đa 3000mcg.
Không cần tăng sinh tố A
khi có thai, nhưng khi cho con bú sữa mẹ thì người mẹ cần tiêu thụ thêm khoảng
200mcg mỗi ngày.
Thiếu
sinh tố A
Thiếu sinh tố A con người
dễ bị nhiễm trùng miệng, cuống họng; giảm thị giác, khô và đục giác mạc
(cornea); cơ thể còi cọc, xương chậm mọc, răng yếu mau hư; da khô có vầy; kém
khả năng thụ thai, thai nhi kém tăng trưởng.
Tuy nhiên, tình trạng thiếu
sinh tố A ít khi xẩy ra vì trong thực phẩm hàng ngày thường có đầy đủ sinh tố
này.
Thừa
sinh tố A
Dùng thêm nhiều sinh tố A
có thể gây ra ăn mất ngon, nhức đầu, rụng tóc, mắt mờ, tính tình nóng nẩy, da
khô, ngứa, tiêu chẩy, ói mửa, sưng gan. Người cao tuổi dùng trên 5000 mcg một ngày
có thể bị suy gan.
Đàn bà có thai không nên
dùng quá 5000mcg/ ngày vì nguy cơ gây khuyết tật ở thai nhi. Tôt nhất là dùng
những thực phẩm chứa nhiều sinh tố A thay vì dùng dạng chế biến.
2. Caroten.
Có ba dạng caroten là
alpha, beta và gamma, đều được gọi chung là tiền-sinh-tố A vì khi cơ thể hấp thụ
những chất này sẽ biến đổi chúng thành sinh tố A.
Carotene có nhiều trong
thức ăn gốc thực vật như các loại rau màu lục đậm và các loại trái cây có mầu vàng
cam đặc biệt là trong trái xoài, trái mơ, củ cà rốt, súp lơ, cà chua.
Nhiều nghiên cứu cho thấy
beta carotene có thể ngăn ngừa bệnh ung thư nhờ tính chống oxy hóa, vô hiệu hóa
gốc tự do trong các phản ứng chuyển hóa của cơ thể.
Nghiên cứu ở Trung Hoa
cho hay khi dùng chungvới sinh tố E, beta carotene có thể ngăn ngừa bệnh ung
thư bao tử. Kết quả nghiên cứu khác cho thấy
beta carotene còn có khả năng giảm sự truyền bệnh AIDS từ mẹ sang con.
Khác với sinh tố A, beta
carotene không gây rủi ro khi được dùng với liều lượng lớn, bởi vì cơ thể chuyển
chất này thành sinh tố A dần dần, tùy theo nhu cầu. Trường hợp dùng với lượng
quá cao (thí dụ mỗi ngày ăn một kí cà rốt)
cũng chỉ làm cho da trở nên vàng
hay cam. Hiện tượng này sẽ mất đi khi ta điều chỉnh chế độ ăn.
Mỗi ngày ta có thể dùng từ
10-20 mcg carotene mà không có ảnh hưởng xấu cho cơ thể.
Nguồn cung cấp carotene gồm có: cà rốt, khoai
lang, bí ngô, dưa canteloupe, bưởi hồng, rau bina (spinache), mận, broccoli và
nhiều loại rau có lá màu lục đậm. Rau trái càng đậm màu lục và màu cam thì càng
chứa nhiều carotene.
SINH TỐ D.
Sinh tố D là chất bột mầu
trắng, không mùi, hòa tan trong mỡ, không hòa tan trong nước, không bị phân hủy
ở nhiệt độ cao và không bị oxy hóa. Do đó sinh tố này không bị mất đi trong khi
chế biến hoặc cất giữ thức ăn.
Công
dụng
Sinh tố D rất cần cho sự
tăng trưởng của xương và răng. Sinh tố duy trì chất calci và phosphor trong máu
ở mức bình thường bằng cách điều hòa sự hấp thụ hai khoáng chất này từ thực phẩm.
Nếu không có sinh tố D,
calci trong thực phẩm không được ruột non hấp thụ, cơ thể sẽ lấy calci dự trữ
trong xương ra để cung ứng cho nhu cầu khác của cơ thể.
Một số nhà chuyên môn y tế
cho rằng sinh tố D có thể làm giảm nguy
cơ ung thư ruột già, vú và các bệnh phong nhức khớp, nhưng vấn đề này vẫn còn
đang trong vòng vi nghiên cứu.
Nguồn
cung cấp
Thực phẩm cung cấp rất ít
sinh tố D, nhưng may mắn là thiên nhiên giúp chúng ta tạo ra loại sinh tố này
qua tác dụng của ánh nắng mặt trời chiếu trên da.
Các loại cá béo như cá
trích (herring), cá thu (mackerel), cá hồi (salmon), cá ngừ (Tuna), cá sardine
là nguồn cung cấp chính của sinh tố D. Cá ăn các sinh vật phù du (plankton)
phơi mình trên mặt biển nắng chói.
Gan, lòng đỏ trứng, bơ có
một ít sinh tố D.
Sữa người và sữa bò có rất
ít sinh tố D.
Rau trái hầu như không có
hoặc chỉ có vài dấu vết sinh tố D
Vì thế, các
thứ sữa và thực phẩm dùng cho trẻ sơ sinh đều được bổ sung sinh tố D, chẳng
hạn như một lít sữa thường được bổ sung
10mcg sinh tố D (tương đương với 400
IU). Ngoài ra, ngũ cốc khô ăn sáng, bánh mỳ, margarine, nước trái cây cũng thường
được cho thêm sinh tố D.
Sinh tố D được ruột non hấp
thụ với sự trợ giúp của mật.
Sinh tố D được tạo ra khi
ánh sáng mặt trời hoặc ánh đèn có tia cực tím chiếu lên da. Tia cực tím biến một
hóa chất dưới da thành một loại sinh tố D rồi gan và thận tiếp tay biến thành
sinh tố D hữu hiệu cho cơ thể. Ta chỉ cần phơi nắng 10- 15 phút, hai hoặc ba lần
mỗi tuần là có đủ lượng sinh tố D cần thiết cho cơ thể. Vì lẽ đó, sinh tố này
còn được gọi là “Sinh tố Ánh Nắng” Sunshine Vitamin).
Lượng sinh tố được tạo ra theo cách này thay đổi
tùy theo thời gian và mức độ tiếp cận với ánh sáng. Da có mầu đậm cản ánh sáng
tới 95%, quần áo và cửa kính, không khí ô nhiễm cũng cản tia tử ngoại vào da;
mùa đông ít ánh nắng hơn mủa hè.
Phần lớn sinh tố D được dự
trữ ở tế bào mỡ, xương và thịt. Một số nhỏ ở gan, óc, phổi và thận. Phần không
dùng tới hầu hết được bài tiết theo phân, chỉ có dưới 4% theo nước tiểu.
Nhu
cầu
Mỗi ngày nên tiêu thụ khoảng
5mcg (tương đương khoảng 200 IU) và không nhiều quá 10mcg (tương đương khoảng
400IU).
Thiếu sinh tố D có thể
đưa đến bệnh còi xương ở trẻ em, mềm xương (osteomalacia) ở người cao tuổi
và xơ cứng mạch máu.
Trong bệnh còi xương,
xương mềm và biến dạng, xương ngực nhô về
phía trước (pigeon breast), xương sọ chậm khép kín, xương sống cong, răng sữa chậm mọc, răng khôn
mỏng manh, men răng mau hư. Tất cả đều do thiếu calci và phosphor trong xương.
Dùng sinh tố D với liều
lượng lớn như trên 50mcg trong một ngày (tương đương 2000 U.I)
có thể nguy hiểm. Calci trong máu sẽ lên cao, kết tụ vào các tế bào tim,
mạch máu, thận, phổi ... và cao quá có thể đưa tới tử vong.
Phụ nữ có thai và trẻ em
sơ sinh dùng nhiều sinh tố D quá thì van tim thu hẹp, em bé bị chậm phát triển
trí não và khuyết tật. Thường thường chỉ khi dùng sinh tố D dạng chế biến thì mới
có nguy cơ này, cho nên cần tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi dung.
Sinh Tố D và Ánh Sáng Mặt Trời.
Sinh tố D là một chất bột
mầu trắng, không mùi, hòa tan trong mỡ, không hòa tan trong nước, không bị phân
hủy ở nhiệt độ cao và không bị oxy hóa.
Do đó sinh tố này không bị mất đi trong chế biến hoặc cất trữ thức ăn.
Sinh tố D có dưới nhiều dạng
và mỗi dạng có tác dụng riêng. Calciferol là hình thức có tác dụng mạnh nhất.
Gan và thận giúp chuyển
hóa sinh tố D tiêu thụ trong thực phẩm hoặc do tác dụng của tia nắng sang dạng
hormone 1.25 dihydrooxyvitamin D. Hormon này gửi tín hiệu cho ruột non để tăng
hấp thụ calci và phosphor.
Công
dụng
Sinh tố D rất cần cho sự
tăng trưởng của xương và răng.
Sinh tố duy trì chất
calci và phospho trong máu ở mức bình thường bằng cách điều hòa sự hấp thụ hai
khoáng chất này từ thực phẩm.
Nếu không có sinh tố D,
calci trong thực phẩm không được ruột non hấp thụ, cơ thể sẽ lấy calci dự trữ
trong xương ra để cung ứng cho nhu cầu khác của các cơ quan, bộ phận.
Một số chuyên viên y tế
cho rằng sinh tố D có thể làm giảm nguy
cơ ung thư ruột già, vú và các bệnh phong nhức khớp, nhưng vấn đề này vẫn còn
đang trong phạm vi nghiên cứu.
Một số nghiên cứu khác cho là sinh tố D có khả
năng duy trì tốt hệ miễn dịch, giúp tế bào tăng trưởng và phân sinh thành các
loại đặc biệt
Nguồn
cung cấp
Thực phẩm cung cấp rất ít
sinh tố D, nhưng may mắn là thiên nhiên giúp chúng ta tạo ra loại sinh tố này
qua tác dụng của ánh nắng mặt trời chiếu trên da.
Tia cực tím của nắng biến
hóa chất ergosterol dưới da thành một loại sinh tố D rồi gan và thận tiếp tay
biến thành sinh tố D hữu hiệu cho cơ thể. Chỉ cần phơi nắng 10-15 phút, hai hoặc
ba lần mỗi tuần là có đủ lượng sinh tố D cần thiết. Vì lẽ đó, sinh tố này còn
được gọi là “Sinh tố Ánh Nắng” Sunshine Vitamin).
Điều
cần lưu ý là:
- Nên tắm nắng vào buổi
sáng khi tia nắng còn dịu hoặc xế chiều khi nắng không gay gắt;
- Không nên bôi quá nhiều
kém chống nắng vì kem ngăn tia cực tím hấp thụ qua da.
- Nên phơi mình trần càng
nhiều càng tốt.
- Cẩn thận để da khỏi bị
cháy nắng và có thể gây ung thư da.
Lượng sinh tố D do nắng tạo
ra thay đổi tùy theo thời gian và mức độ tiếp cận với ánh sáng.
Da có mầu đậm cản ánh
sáng tới 95%, quần áo và cửa kính, không khí ô nhiễm cũng cản tia tử ngoại vào
da; mùa đông ít ánh nắng hơn mủa hè.
Các loại cá béo như cá
trích (bloater, herring), cá thu (mackerel), cá hồi (salmon), cá ngừ (Tuna), cá
sardine là nguồn cung cấp chính của sinh tố D. Cá ăn các sinh vật phù du
(plankton) phơi mình trên mặt biển nắng chói.
Gan, lòng đỏ trứng, bơ có
một ít sinh tố D.
Rau trái hầu như không có
hoặc chỉ có vài dấu vết sinh tố D
Sữa người và sữa bò có rất
ít sinh tố D. Vì thế, các thứ sữa và thực
phẩm dùng cho trẻ sơ sinh đều được bổ sung sinh tố D, chẳng hạn như một lít sữa thường được bổ sung 10mcg sinh tố
D (tương đương với 400 IU).
Ngoài ra, ngũ cốc khô ăn
sáng, bánh mỳ, margarine, nước trái cây cũng thường được cho thêm sinh tố D.
Sinh tố D được ruột non hấp
thụ với sự trợ giúp của mật.
Phần lớn sinh tố D được dự
trữ ở tế bào mỡ, xương và thịt, một số nhỏ ở gan, óc, phổi và thận.
Phần không dùng tới hầu hết được bài tiết theo
phân, chỉ có dưới 4% theo nước tiểu ra ngoài.
Nhu
cầu
Viện Y học Hoa Kỳ đề nghị
mỗi ngày nên tiêu thụ khoảng 5mcg (tương đương với 200 IU) và không nhiều quá
10mcg (tương đương với 400IU).
Tuy nhiên, một số nhà
dinh dưỡng khác, như bác sĩ người Canada Reinhold Vieth, lại cho rằng cơ thể cần
số lượng sinh tố D cao hơn, khoảng 4000IU/ ngày.
Thiếu
sinh tố D
Thiếu sinh tố D có thể
đưa đến bệnh còi xương ở trẻ em (ricket), mềm xương (osteomalacia) ở người cao
tuổi và xơ cứng mạch máu.
Trong bệnh còi xương,
xương mềm và biến dạng, xương ngực nhô về
phía trước (pigeon breast), xương sọ chậm khép kín, xương sống cong, răng sữa chậm mọc, răng khôn
mỏng manh, men răng mau hư. Tất cả đều là do thiếu calci và phosphor trong
xương.
Thiếu
sinh tố D xảy ra khi:
* Tiêu thụ ít hơn số lượng
được khuyến khích
* Ít tiếp xúc với tia nắng
* Thận không chuyển hóa
sinh tố D sang dạng hormone
* Cơ thể không hấp thụ được sinh tố D ở ruột
Người dị ứng với sữa hoặc
ăn rau thuần túy đề dễ bị thiếu sinh tố D. Trẻ em chỉ nuôi với sữa mẹ cũng thiếu
sinh tố D, nếu các em không được dùng thêm calci phụ.
Những
trường hợp sau đây cần dùng thêm sinh tố D:
- Em bé nuôi với sữa mẹ.
- Người trên 50 tuổi. Lý do là da của họ không
tổng hợp hữu hiệu được sinh tố D và thận cũng kém chuyển hóa sinh tố D thành dạng
kích thích tố.
Theo thống kê, có từ 30-40% người cao tuổi bị
gãy xương hông vì thiếu sinh tố D. Do đó lớp người này có thể được bảo vệ hơn,
nếu dùng thêm sinh tố D.
- Những người ít tiếp xúc với mặt trời như cư
dân miền bắc cực, dân chúng mặc quần áo chùm kín cơ thể, người làm việc trong
không gian không có mặt trời.
- Người da mầu, có nhiều
chất màu melanin bao phủ khiến tia tử ngoại không xâm nhập được vào da.
Người có rối loạn hấp thụ chất béo như trong bệnh
viêm ruột (bệnh Crohn), bệnh xơ nang tụy tạng (cystic fibrosis), bệnh gan, tụy
tạng, giải phẫu cắt bỏ một phần bao tử hoặc ruột.
Thừa
sinh tố D
Dùng sinh tố D với liều
lượng lớn như trên 50mcg trong một ngày (tương đương 2000 U.I) có thể gây ra nôn mửa, táo bón, ăn không
ngon, mệt mỏi, xuống cân, tăng lượng calci trong máu, rối loạn tâm trí.
Quá cao calci trong máu
có thể đưa tới rối loạn nhịp tim, kết tụ calci vào các tế bào tim, mạch máu, thận,
phổi.
Các nhà dinh dưỡng định mức
độ tối đa sinh tố D mà cơ thể chịu đựng được là 25µ (1000IU) cho trẻ em tới 12
tháng; 50µ (2000IU) cho trẻ em, phụ nữ có thai và mẹ cho con bú sữa của mính.
Một số nghiên cứu cho
hay, phụ nữ có thai và trẻ em sơ sinh dùng nhiều sinh tố D quá thì van tim thu
hẹp, bé bị chậm phát triển trí não và bị khuyết tật. Thường thường chỉ khi dùng
sinh tố D phụ thêm thì mới có nguy cơ này. Vì thế, nên tham khảo ý kiến bác sĩ
trước khi dùng.
Sinh
tố E
Sinh tố E được các khoa học
gia tại Đại học Berkeley, California khám phá ra cách nay hơn 80 năm. Trong những
thập niên vừa qua, sinh tố này đã là một trong những ngôi sao sáng trong số các
chất dinh dưỡng.
Có hai nhóm sinh tố E
chính: nhóm tocopherols và tocotrienol với 4 isomers.
Trong hai nhóm này, nhóm
alpha-tocopherol isomer có tác dụng mạnh nhất ở trong cơ thể. Cơ thể hấp thụ được
cả tocopherol thiên nhiên và nhân tạo nhưng loại thiên nhiên trong thực phẩm có
nhiều tác dụng tốt hơn.
Sinh tố E (tocopherol) có
dạng dầu sền sệt, mầu vàng nhạt, hòa tan trong chất béo hoặc cồn và không hòa
tan trong nước.
Sinh tố chịu đựng được sức
nóng và acid nhưng bị phân hủy bởi tia tử ngoại hoặc oxygen.
Đun nấu với nhiệt độ bình
thường không làm mất sinh tố E, nhưng khi chiên rán chìm trong chất béo hoặc
đóng hộp, sấy khô thì sinh tố E mất đi khá nhiều.
Vai
trò của sinh tố E trong cơ thể
Trong cơ thể, vitamin E
có vai trò quan trọng trong việc chuyển hóa của các tế bào, bảo vệ sinh tố A và chất béo khỏi bị
oxy hóa, tạo hồng cầu, phòng ngừa sự hư hao của tế bào và giúp cơ thể sử dụng
sinh tố K.
Công
dụng
Sinh tố E được đề nghị để
phòng ngừa hoặc điều trị một số vấn đề của sức khỏe do tác dụng chống oxy hóa của
chúng. Tuy nhiên, cho tới nay kết quả các nghiên cứu đều chưa được thống nhất,
chưa có tính cách kết luận hoặc mới có ý kiến trung dung (neutral), đôi khi
tiêu cực (negative).
Theo một số tác giả, sinh
tố E là một chất chống oxy hóa rất hữu hiệu. Sinh tố bảo vệ các mô, giúp chế tạo
và bảo vệ hồng huyết cầu; giúp cơ thể sử dụng sinh tố K.
Vì là chất chống oxy hóa,
một số tác giả cho biết sinh tố E có thể tiêu diệt hoặc vô hiệu hóa các gốc tự
do (free radicals) do đó có thể giữ một vai trò nào đó trong sự phòng ngừa ung
thư và làm chậm tiến trình lão suy. Selenium và sinh tố E có thể thay thế, hỗ
trợ cho nhau trong công dụng này.
Nghiên cứu sơ khởi cho thấy sinh tố E có thể
ngăn ngừa các chứng bệnh tim mạch, kể cả những chứng nhồi máu cơ tim hay tai biến
động mạch não, vì nó làm giảm bớt sự kết tụ của cholesterol xấu LDL (low
density lipoprotein) ở trong mạch máu.
Một số nghiên cứu khác
cho thấy sinh tố E có thể làm tăng tính miễn dịch bằng cách bảo vệ tế bào khỏi
bị tổn thương, do đó sức đề kháng của cơ thể với các bệnh nhiễm trùng mạnh hơn.
Đặc tính này có lẽ cũng giúp trì hoãn các triệu chứng của bệnh sa sút trí tuệ.
Sinh tố E còn làm giảm
nguy cơ bệnh cườm mắt (cataract) nhờ khả năng chống oxy hóa.
Các nghiên cứu trước đây
cho thấy sự sinh đẻ của chuột khả quan hơn khi cho dùng sinh tố E.
Trái với tin tưởng của
nhiều người, sinh tố này không có vai trò gì trong việc làm đời sống tình dục
người nam mạnh hơn.
Nguồn
cung cấp
Nguồn cung cấp chính sinh
tố E là thực phẩm gốc thực vật như dầu đậu nành, dầu hột bông gòn (cotton seed
oil), dầu hướng dương (sunflower oil), dầu bắp, phó sản của các dầu vừa kể như
margarine; trong mầm lúa mì (wheat germ); trong bắp, các loại hạt có vỏ cứng, hạt
dưa (seed), quả ô liu, măng tây và các loại rau có lá màu lục.
Thực phẩm gốc động vật có
rất ít sinh tố E.
Sinh tố E được hấp thụ ở ruột non với sự hỗ trợ
của mật và chất béo.
Sinh tố E lưu chuyển trong máu và được dự trữ
trong tế bào mỡ, gan, bắp thịt, phần dư thừa được bài tiết qua phân.
Không giống như sinh tố A và D, sinh tố E
không gây ra triệu chứng ngộ độc khi ta dùng một số lượng cao.
Tuy nhiên, đang uống thuốc Coumadin chống
loãng máu cần cẩn thận, vì sinh tố E cao quá có thể làm xuất huyết nhiều hơn.
Nhu
cầu
Nhu cầu sinh tố E thay đổi
tùy theo tuổi tác, nam hoặc nữ, tình trạng sức khỏe và số lượng chất béo bão
hòa mà người đó tiêu thụ. Chất béo bão hòa dễ bị oxy hóa vì thế cần tăng sinh tố
E nếu ăn nhiều chất này.
Liều (dose) sinh tố được ghi theo đơn vị
milligram hoặc IU (International units). 1mg alpha-tocopherol tương đương với
1.5 IU.
Tại Hoa Kỳ, giới chức y tế dinh dưỡng đề nghị
(Recommended Daily Allowance- RDA) là:
-Nam nữ từ 14 tuổi và phụ
nữ có thai ở mọi tuổi cần 15mg (hoặc 22.5IU),
- Phụ nữ cho con bú sữa mẹ
cần 19mg (hoặc 28.5IU) sinh tố E mỗi ngày.
Số lượng này đều có trong phần ăn hàng ngày nếu
ta tiêu thụ đầy đủ các chất dinh dưỡng trong thực phẩm.
Với trẻ
em sơ sinh, không có RDA nhưng có đề nghị:
-Các em khỏe mạnh bú sữa
mẹ từ lúc sanh tới 6 tháng cần 4mg/ngày (6IU/ngày);
Từ 7-12 tháng cần
5mg/ngày (7.5 IU/ngày).
RDA cho trẻ em
-Từ 1-3 tuổi: 6mg/ngày
(7.5 IU);
-Từ 4-8 tuổi: 7mg/ngày
(10.5 IU)
- Trẻ em từ 9-13 tuổi:
11mg/ngày (16 IU/ngày).
Thiếu
sinh tố E
Thiếu sinh tố E rất ít
khi xảy ra và có thể thấy trong bệnh nhân kém hấp thụ chất béo ở ruột như bệnh
Crohn, sau giải phẫu, khi kém dinh dưỡng, khi tiêu thụ rất ít sinh tố E hoặc
trong vài bệnh di truyền đặc biệt.
Thiếu sinh tố trong thời gian lâu có thể đưa tới
không vững trong việc đi đứng và không có phối hợp giữa các cơ bắp, yếu cơ bắp,
giảm phản xạ (reflex). Thiếu kinh niên có thể đưa tới mù lòa, sa sút trí tuệ,
thay đổi nhịp tim.
Điều trị khi thiếu sinh tố
E cần được bác sĩ xác định và theo dõi vì có nhiều chứng minh khoa học cho hay,
dùng thêm sinh tố E có thể gây hậu quả không tốt cho cơ thể.
An
toàn của sinh tố E
Cho tới nay, chưa có chứng minh khoa học về sự
công hiệu của sinh tố E khi dùng quá liều để được cơ quan y tế đưa ra (RDA). Do
đó, cần cân nhắc lợi hại trước khi quyết định dùng thêm sinh tố E.
Dùng thêm trong thời gian
ngắn với liều tối đa 1000mg/ ngày (tương đương với 1100 IU) được coi như tương
đối an toàn và có thể có ích lợi.
Ảnh hưởng lâu dài khi
dùng nhiều sinh tố E vẫn chưa được làm rõ cho nên các giới chức y tế khuyên không
nên dùng quá nhiều sinh tố này.
Quá nhiều sinh tố E có thể
đưa tới viêm da, đau bụng, tiêu chẩy, ói mửa, tăng rủi ro xuất huyết, chóng mặt,
mệt mỏi, nhức đầu, mờ mắt…
SINH
TỐ K.
Sinh tố K (còn gọi là
sinh tố chống xuất huyết) hòa tan trong chất béo và có hai loại: K1 có tự nhiên trong rau mầu lục và K2 được tổng
hợp bởi các vi sinh vật trong ruột của người và động vật. Sinh tố K3 được tổng
hợp bằng phương pháp khoa học.
Công
dụng
Sinh tố K có nhiệm vụ bảo
vệ cơ thể chống chẩy máu khi bị vết thương trên da thịt hay xuất huyết trong cơ quan nội tạng. Sinh tố K giúp
gan tổng hợp bốn yếu tố đông máu II, VII, IX và X mà khi thiếu các yếu tố này
thì máu không đông được .
Nhiều nghiên cứu sơ khởi
cho thấy sinh tố K có thể tăng cường sức chịu đựng của bộ xương ở người cao tuổi.
Nguồn
cung cấp
Các vi khuẩn trong ruột
con người tạo khoảng 80% sinh tố K, số còn lại do thức ăn cung cấp.
Sinh tố K có nhiều trong
trà xanh, cây củ cải (turnip), bắp su (cabbage), su lơ (cauliflower), những loại
rau có lá lớn, đậu nành và nhiều loại dầu thực vật, gan, thịt lợn.
Sinh tố K chịu đựng được
sức nóng và độ ẩm nhưng bị tia tử ngoại, acid, kiềm, oxygen phân hủy. Việc nấu
nướng thức ăn thường không làm mất sinh tố K.
Sinh tố K tổng hợp
menadione hay K3 cũng có tác dụng như sinh tố K.
Nhu
cầu
Mỗi ngày nên tiêu thụ từ
30 mcg-80 mcg tùy theo độ tuổi. Số lượng này đều có trong thực phẩm nên không cần
phải uống thêm sinh tố K.
Lý do thiếu sinh tố K thường
là do uống nhiều thuốc kháng sinh khiến
vi khuẩn trong ruột bị tiêu diệt, hoặc không có khả năng hấp thụ sinh tố K từ
thực phẩm.
Trẻ sơ sanh chưa có vi
sinh vật trong ruột, cũng thường hay thiếu sinh tố K nên sau khi sinh, được
tiêm một lượng nhỏ sinh tố này để ngừa
chảy máu.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét