VUÔNG TRÒN NGÀY XUÂN
Thứ
tư - 25/01/2017
Tết đến, Xuân về, không
dưng nói chuyện “hình Vuông và hình Tròn”, xem chừng “việt vị” hoặc “lạc quả”
vì có vẻ chẳng “ăn nhập” gì tới Tế Nguyên Đán. Thế nhưng lại không phải như vậy
đâu, nghịch mà thuận!
Hình vuông và hình tròn
được coi là hai hình hoàn hảo nhất trong các hình. Thời xưa, những đồng tiền kẽm
lưu hành trong triều Nguyễn có hình dáng mang ý nghĩa của Càn Khôn. Đồng tiền kẽm
hình tròn, chính giữa có cái lỗ hình vuông, bốn góc có bốn chữ nho nằm bên mỗi
cạnh hình vuông, còn tiện để xỏ dây xâu vào cho tiện.
Đồng tiền xưa có hình
tròn, bên trong có lỗ hình vuông, có vẻ không “khớp” nhau nhưng vẫn lô-gích.
Người ta cũng chúc các thai phụ được “mẹ tròn, con vuông”, ý nói được an toàn
khi sinh nở, mẹ con đều khỏe mạnh. Thai hình tròn tức là “mẹ tròn”, con ra đời
khỏe mạnh tức là “con vuông”. Khi nói về điều gì tốt lành, xuôi xắn, trung
thành,… người ta cũng dùng hình vuông và hình tròn để nói. Ví dụ: “Sống sao cho
vuông tròn trước sau”.
Khi nói về chuyện trăm
năm, cụ Nguyễn Du viết trong Truyện Kiều: “Trăm năm tính cuộc vuông tròn, Phải
dò cho đến ngọn nguồn lạch sông” (câu 1331-1332). “Cuộc vuông tròn” ở đây là
chuyện hôn nhân, chuyện cả đời, phải suy hơn tính thiệt, không thể “nhắm mắt
đưa chân”.
Nếu đem cách nói “vuông,
tròn” của người Việt mà dịch nguyên văn ra ngoại ngữ, nhất là các ngôn ngữ Tây
phương, hẳn là rất khó truyền đạt đầy đủ ý nghĩa “tốt lành” của nó đến người
nghe. Đơn giản là người Tây phương không có chung khái niệm về văn hóa và triết
lý với Việt Nam. Đối với họ, khái niệm “vuông tròn” không mang một ý nghĩa hòa
hợp, thậm chí còn không thể dung nạp nhau. Về phương diện kỷ hà học, đó là những
hình thể khác hẳn nhau. Nếu đặt cạnh nhau chỉ gợi ra ý tương phản, không “khớp”
với nhau.
Nghịch lý đó vẫn có ý
nghĩa tích cực khả dĩ giải thích. Hẳn là điều đó bắt nguồn từ khái niệm cơ bản
xuất phát từ dân gian, được người đời chấp nhận như các yếu tố cấu thành tốt đẹp.
Văn hóa Việt ảnh hưởng sâu đậm từ “tam giáo” (Phật, Lão, Khổng) hiện hữu lâu đời
trong đời sống dân chúng. Ảnh hưởng tiềm ẩn trong nền nếp sinh hoạt, trong ngôn
ngữ dân gian, thấm vào da thịt, và lưu chuyển trong huyết quản người Việt. Luật
“nhân quả” theo Phật thuyết được chấp nhận như một tiền đề của nhiều quan niệm
sống trong dân gian. Do đó, từ những nhân tố được thừa nhận là tốt đẹp dẫn đến
yếu tố tốt lành theo luật nhân quả như lẽ tất nhiên: “Cây nào quả nấy”, “rau
nào sâu nấy”, “cha nào con nấy”, hoặc “thầy nào trò nấy”.
Nhưng trong văn hóa Việt
Nam, hình vuông và tròn đi đôi trong nhiều trường hợp, chúng gắn liền với nhau
để biểu thị cho sự kết hợp thuận lẽ trời, và tạo kết quả tốt lành. Khái niệm
vuông tròn dựa trên chứng cứ đầu tiên từ sự tích bánh chưng và bánh giầy (1).
SỰ
TÍCH
Chuyện xưa kể rằng…
Ngày xưa, đời Vua Hùng
Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con.
Nhân dịp đầu Xuân, vua họp các hoàng tử lại và bảo: “Con nào tìm được thức ăn
ngon lành để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, ta sẽ truyền ngôi vua cho”. Các hoàng
tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng được ngự
trên ngai vàng.
Khi đó, người con trai thứ
18 của Hùng Vương là Tiết Liêu (2) bản tính hiền hậu, đạo đức, hiếu thảo với
cha mẹ. Hoàng tử nghĩ rằng chẳng thà không được làm Thái tử, chứ bỏ cha mẹ
không người thần hôn định tỉnh, lòng Hoàng tử không đành. Không rời cha mẹ,
nhưng Hoàng tử cũng không dám trái lời Vua cha, vẫn nghĩ tìm của ngon vật lạ để
dâng tiến Vua cha và Hoàng hậu khi kỳ hạn tới. Và lòng hiếu của Hoàng tử đã động
tới thần linh.
Một hôm, Tiết Liêu nằm mộng
thấy có vị Thần đến bảo: “Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo,
vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn
và hình vuông, tượng trưng Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột
bánh, để tượng trưng Cha Mẹ sinh thành”.
Tiết Liêu tỉnh dậy và vô
cùng mừng rỡ. Ông làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuông để
tượng trưng Đất, bỏ vào chõ chưng chín, gọi là Bánh Chưng. Và ông giã xôi làm
bánh tròn, tượng trưng Trời, gọi là Bánh Giầy. Còn lá xanh bọc ở ngoài và nhân ở
trong ruột bánh là tượng trưng cha mẹ luôn yêu thương và đùm bọc con cái.
Đến ngày hẹn, các Hoàng tử
đều đem thức ăn đến bày trên mâm. Có đủ sơn hào hải vị, nhiều món ngon. Hoàng tử
Tiết Liêu chỉ có bánh giầy và bánh chưng. Vua Hùng lấy làm lạ nên hỏi, Tiết
Liêu thuật lại chuyện Thần linh báo mộng, đồng thời giải thích cho Vua cha về ý
nghĩa của bánh giầy và bánh chưng. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon và khen ngợi
về ý nghĩa.
Vua cha rất hài lòng bảo
Hoàng hậu: “Các sơn hào hải vị của các Hoàng tử khác, tuy ngon nhưng duy chỉ một
mình ta được hưởng, còn hai thứ bánh chưng và bánh giầy, làm bằng gạo của Trời
Đất sinh ra, ta chỉ việc phổ biến cách làm là toàn dân đều được thưởng thức cái
ngon có ý nghĩa của bánh”. Thế là Vua cha bèn truyền ngôi cho Tiết Liêu.
Tết năm đó, nhà Vua dùng
ngay bánh chưng bánh giầy làm đồ lễ cúng Trời Đất, và cũng truyền dạy cho nhân
dân cách làm bánh để dùng trong việc cúng tế. Từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên
Đán, dân chúng đều làm bánh chưng và bánh giầy để tế Trời Đất và cúng Tổ tiên.
Ý
NGHĨA
Bánh giầy và bánh chưng
tượng trưng Trời Đất, mang ý nghĩa nguồn gốc sự sống. Trời là Cha, Đất là Mẹ –
song thân tạo nên chúng ta. Khi gặp nguy biến hoặc đau khổ, người ta nghĩ ngay
đến song thân Phụ Mẫu. Có khi chúng ta gọi Trời: “Trời ơi!”, có khi gọi cả Trời
và Đất: “Trời Đất ơi!”, có khi gọi Cha Mẹ: “Cha Mẹ ơi!”, có khi gọi cả Trời đất
và Cha Mẹ: “Trời Đất, Cha Mẹ ơi!”.
Trong vũ trụ quan của người
Á Đông, khái niệm vuông tròn chính là khái niệm về Trời Đất, về Càn Khôn, về Âm
Dương. Trong kiến trúc Đông phương, bao giờ cũng là những đường nét pha trộn Âm
và Dương. Ngoài những đường thẳng cần thiết phải có, bao giờ người ta cũng đưa
vào thêm những đường cong và vòng tròn, tạo nên một tổng-thể-hài-hòa-Âm-Dương.
Mái ngói cong, cửa sổ tròn, đó là cách kết hợp tạo sự hài hòa Âm Dương. Trong
kiến trúc Tây phương ít khi có những đường nét như vậy.
Hình tròn còn tượng trưng
Âm tính, hình vuông tượng trưng Dương tính. Sự kết hợp hài hòa Âm Dương được
xem là một kết hợp thuận tự nhiên. Sự kết hợp đó luôn luôn mang lại kết quả tốt
đẹp. Đó là một “khái niệm thiện”. Người Việt có câu tục ngữ: “Đầu tròn, gót
vuông”. Theo Đông y, cơ thể con người nửa phần trên, tận cùng là cái đầu mang
tính Âm (đầu tròn). Phần dưới tận cùng là đôi chân mang tính Dương (gót vuông).
Khi khám bệnh, thầy thuốc sờ đầu và sờ chân, thấy đầu mát (Âm) và chân ấm
(Dương) là tốt vì thuận Âm Dương, không đáng lo. Ngược lại (đầu ấm, chân mát)
là bất ổn. Nên giữ đầu mát và đôi chân ấm thì sẽ khỏe mạnh. Triết lý của người
Á Đông hay thật!
Nếu hình vuông đứng một
mình thì chỉ là vuông, nếu hình tròn đứng một mình thì chỉ là tròn. Nhưng kết hợp
hình vuông và hình tròn sẽ tạo khái niệm về Trời Đất, Âm Dương hài hòa, mang
tính thiện, luôn trường cửu.
Bánh chưng và bánh giầy
là các loại bánh truyền thống của dân tộc Việt Nam, thể hiện lòng biết ơn của
con cháu đối với tiền nhân và Đất Trời. Bánh chưng hình vuông và màu xanh, tượng
trưng cho Đất; bánh giầy hình tròn và màu trắng, tượng trưng cho Trời. Điều đó
thể hiện triết lý Âm Dương, biện chứng Đông phương (nói chung), và triết lý
Vuông Tròn của Việt Nam (nói riêng). Bánh giầy là Dương dành cho Cha, bánh
chưng là Âm dành cho Mẹ. Bánh chưng và bánh giầy thể hiện nghĩa cử “uống nước
nhớ nguồn”, nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục bao la như Trời Đất của Cha Mẹ.
Sự tích bánh chưng và
bánh giầy cho thấy lòng hiếu thảo (một trong những tính thiện của con người) của
Hoàng tử thứ tư đã làm Thần inh cảm kích mà chỉ dạy cách sử dụng hạt gạo quý
giá như ngọc để làm món ăn ngon dâng Vua cha. Lòng yêu dân thương nước của Vua
Hùng đã làm cho món ăn quý giá này được đời đời lưu truyền. Điều đó cho thấy rằng
những gì thuận ý Trời, theo “tính bổn thiện” mà Trời ban cho con người, thì trường
tồn bất biến – dù hoàn cảnh có biến đổi. Chắc chắn điều gì không thuận ý Trời
như gian tà, độc ác, ích kỷ, đố kỵ,… thì sẽ bị tiêu diệt. Lịch sử thế giới đã
và đang chứng minh chân lý bất biến: “Thiện luôn thắng ác”.
TƯ DUY TÂM LINH
Hoàng tử Tiết Liêu chẳng
thà không được làm Thái tử, chứ không đành bỏ mặc cha mẹ. Con người này quả là
người nhân đức, đủ bản lĩnh nội tâm. Những con người biết sống vì người khác,
không tham quyền cố vị, không kèn cựa tranh giành, không ích kỷ, không tham
lam, không chuộng bề ngoài, chỉ một mực thể hiện đức yêu thương, chắc chắn cuộc
sống luôn thanh thản và bình an. Một tấm gương sáng ngời cho chúng ta noi theo.
Kinh thánh xác định: “Tất
cả chỉ là phù vân” (Gv 1:2), và biết chắc khi chết thì ai cũng “buông xuôi tay
trắng”, thế mà người ta và giành giật nhau từng chút, ngay cả miếng ăn cũng vậy,
kém một chút là “khó chịu ra mặt”. Khốn nạn thật!
Về quyền hành, Chúa Giêsu
nói: “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết, và làm người phục
vụ mọi người” (Mc 9:35). Thế nhưng thực tế khác hẳn, thậm chí là trái ngược,
ngay cả trong tôn giáo cũng chẳng hơn gì!
Và còn bao chuyện đời
khác nữa mà Đức Kitô đã mạnh mẽ lên án gắt gao!
Thiên Chúa là Đấng tạo dựng
Trời và Đất, Ngài có quyền trên tất cả mọi sự. Khi nói về chuyện thề thốt, Chúa
Giêsu có nhắc tới Trời và Đất, đồng thời khuyến cáo: “Đừng thề chi cả. Đừng chỉ
trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới
chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả” (Mt
5:34-35).
Chúa Giêsu cũng nhắc tới
Đầu: “Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng
hay đen được. Nhưng hễ CÓ thì phải nói CÓ, KHÔNG thì phải nói KHÔNG. Thêm thắt
điều gì là do ác quỷ” (Mt 5:34-37). Quá minh nhiên!
Chúa Giêsu còn nói thẳng
thừng hơn: “Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném
đi; thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai
chân mà bị ném vào lửa đời đời” (Mt 18:8). Cách nói chân thật của Ngài luôn khiến
chúng ta cảm thấy “nghịch nhĩ”. Nhưng sự thật mãi mãi là sự thật, chúng ta học
mãi mà chưa thông, chưa khôn, chưa can đảm!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con luôn
biết sống vuông tròn với Ngài và với tha nhân, đặc biệt là mùa Xuân này và năm mới
này. Amen.
TRẦM THIÊN THU
GHI CHÚ:
(1) Chưa thống nhất cách
viết, có khi viết là bánh Giầy hoặc bánh Dầy. Bánh này không dầy nên có thể
không là bánh Dầy. Ngày xưa, khi giã bột làm bánh, người ta thường đi ủng (giầy)
để giã, thế nên rất có thể là bánh Giầy.
(2) Còn gọi là Lang Liêu,
Lang Lèo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét