Nhận định của một chuyên viên giáo luật
giáo dân về trường hợp điển hình cho phép người Công Giáo ly dị tái hôn phần đời
rước lễ
Vũ
Văn An1/13/2017
Đọc trường hợp điển hình
do Linh Mục Paul Keller trình bầy về trường hợp có thể cho người Công Giáo ly dị
tái hôn phần đời rước lễ, nhà giáo luật học giáo dân Edward Peters, kiểm trình
viên của toà tối cao Vatican, đã có bài nhận định đăng trên blog “In the Light
of the Law” của ông. Chúng tôi xin được lược dịch dưới đây:
Bài tiểu luận của (Cha)
Keller có thực sự là cách nên đọc Niềm Vui Yêu Thương không?
Xin lỗi vì chiều dài của
bài này. Sửa chữa các sai lầm bao giờ cũng cần nhiều thì giờ hơn là tạo ra
chúng. Trong tiểu luận của Cha Paul Keller đăng trên Crux, “Case study in
communion for the divorced/remarried”, chúng ta đương đầu với nhiều sai lầm.
Tiểu luận của (Cha)
Keller minh hoạ gần như hoàn hảo việc các mục tử, khi đọc Niềm Vui Yêu Thương của
Đức Phanxicô theo nghĩa tổng quan, bạch thoại của nó (chứ không theo kiểu luật
sư luôn phân tích cú pháp một số cụm từ gây vấn đề một cách đủ xít xao để hỗ trợ
lối giải thích có tính hợp truyền thống hơn), đã sẵn sàng rơi vào chỗ chấp nhận
(theo quan điểm của tôi) một thiếu sót chính trong Niều Vui Yêu Thương (dù nhiều
người khác còn xếp các khía cạnh khác trong văn kiện của Đức Phanxicô vào loại
gây nhiều vấn đề hơn nữa về lâu về dài), đó là, mặc nhiên giả định rằng, phân
tích đến cùng, việc đánh giá bằng lương tâm của một người Công Giáo là tiêu chuẩn
duy nhất điều khiển quyết định của một thừa tác viên trong việc cho một thành
viên tín hữu rước lễ. Giả định này, bất cứ do đâu mà có và bất kể có bao nhiêu
người chấp nhận, đều sai một cách đơn thuần. Qúy bạn hãy nắm vững điều đó và ta
có được yếu tính của sự việc.
(Cha) Keller mặc tình nhạo
báng một cách nhẹ nhàng theo kiểu một số người tân thời thích dành cho truyền
thống Giáo Hội (như, nhắc nhở ta đừng “coi các giới điều luân lý của Giáo Hội
như thể chúng là những hòn đá [để] liệng vào người khác”), tuy nhiên, ở hầu hết
các phần của tiểu luận, các sai lầm của ngài được lên câu chữ một cách khéo
léo. Đó là điều làm cho việc trả lời tiểu luận của ngài trở thành cần thiết.
Người ta bị nó cuốn hút như họ thường bị những câu truyện “khó nhá” (hard case)
cuốn hút.
Tôi xin bắt đầu bằng cách
đồng ý với (Cha) Keller ở điểm mở đầu: Không điều gì trong mô tả của cha về
“Irma” gợi ý cho thấy cuộc hôn nhân của chị với Francisco ở El Salvador là
không thành sự. Trong việc nhận ra các cơ sở khả hữu cho việc vô hiệu, thì các
tòa án luôn tốt hơn các cha xứ nhiều nhưng (Cha) Keller đúng khi không để Irma
hy vọng nhiều ở án vô hiệu.
Bây giờ, chỉ xin trình bầy
một số sai lầm nghiêm trọng trong tiểu luận của (Cha) Keller.
Sai lầm thứ nhất: “Để
trả lời câu hỏi ấy, tôi phải theo các hướng dẫn mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã
mô tả trong Niềm Vui Yêu Thương sau nhiều cuộc thảo luận và biện phân của hai
Thượng Hội Đồng Giám Mục về Đời Sống Gia Đình”.
Sai. Khi trao Mình Thánh
Chúa cho một thành viên tín hữu, các thừa tác viên Công Giáo Rôma bị trói buộc
không phải bởi “các hướng dẫn” cho là được tạo ra từ một văn kiện giáo hoàng
đơn độc, hàm hồ và gây nhiều tranh cãi, nhưng là bởi bản văn rõ ràng và có tính
giải quyết dứt khoát (dispositive) của một văn kiện giáo hoàng khác, đó là Bộ
Giáo Luật (nhất là điều 915 và sau đó), và bởi việc giải thích chung và không
thay đổi dành cho các điều khoản này qua nhiều thế kỷ.
Sai lầm thứ hai: “Chị
[Irma] nói với tôi rằng theo Tony, ý tưởng đó [sống như anh trai em gái với người
phối ngẫu của cuộc hôn nhân dân sự] điên rồ. Vì họ chỉ mới 26 tuổi, nên Irma sợ
điều có thể xảy ra cho mối liên hệ của họ nếu họ không còn khả năng lớn lên
trong tình yêu của họ nhờ sự thân mật thể lý”.
(Cha) Keller không do dự
chấp nhận mô tả của Irma về mối liên hệ tình dục của chị, một liên hệ có tính
ngoại tình khách quan, như là một cách “để lớn lên trong tình yêu”. Như thế,
Cha đã triệt để bỏ qua, không nói tới sự thật của tình yêu cho một đứa con của
Thiên Chúa, kẻ đến lãnh ý kiến của cha trong tư cách một linh mục của Giáo Hội
và là một thừa tác viên bí tích của Chúa Kitô. Bất cứ linh mục nào, chứ đừng
nói một linh mục được người ta tới để xưng tội (xem điều 978§2 Bộ Giáo Luật),
cũng phải bị tính sổ đối với sự bỏ qua này ở Ngày Phán Xét. Nếu, trong tư cách
vị giải tội, (Cha) Keller chấp nhận quyết định của Irma dấn thân vào mối liên hệ
tình dục với Tony, cha đã phạm tội xúi giục (solicitation) trong tòa giải tội
(Xem Điều 1387).
Sai lầm thứ ba: “Chị
[Irma] không nghĩ Tony có thể xử lý được viễn ảnh phải cam kết sống độc thân
hoàn toàn trong suốt thời gian 70 năm còn lại. Hơn nữa, cả chị lẫn Tony đều muốn
có 'ít nhất hai hoặc ba đứa con nữa'".
Bỏ qua một bên lối ước
tính non nớt của Irma mới 26 tuổi đầu về tuổi thọ và do đó về giai đoạn sinh hoạt
tình dục tích cực của chị, điều quan trọng đáng lưu ý hơn là Tony không buộc phải
giữ “độc thân”. Không điều gì trong tiểu luận của (Cha) Keller gợi ý cho thấy
Tony không được tự do kết hôn. Đã đành anh ta không được tự do kết hôn với
Irma, vì chị vốn được kể là người đã kết hôn rồi, nhưng việc (Cha) Keller coi
Tony như người không được tự do kết hôn là hoàn toàn sai. Là một người đàn ông
độc thân, dĩ nhiên, Tony bị buộc phải tiết dục và đáng lẽ ra (Cha) Keller phải
giúp làm sánb tỏ điểm này với những người có thói quen lẫn lộn các từ ngữ ở
đây; nhưng dù sao, Tony không bị buộc phải độc thân hay tiết dục dựa vào hoàn cảnh
của Irma.
Sai lầm thứ tư: “Dù
không nói như vậy với Irma, nhưng tôi tự hỏi liệu để chị tham dự một nhà thờ
không Công Giáo có phải là điều tốt hơn cho chị không”.
Cám ơn Chúa, một linh mục
Công Giáo chưa thực hiện một gợi ý đáng chê trách như thế cho một giáo dân Công
Giáo đến với ngài để hỏi ngài các vấn đề luân lý khẩn trương. Tuy nhiên, chính
(Cha) Keller, người đã nhắc đến ý nghĩ này hai lần, cần tức khắc loại bỏ khỏi
tâm trí ngài bất cứ ý niệm nào về việc khuyên một hối nhân phạm một số tội trọng
khách quan khác (như ngưng không tham dự Thánh Lễ các Chúa Nhật hay gia nhập một
đức tin khác) để có thể cảm thấy nhẹ nhõm do việc cảm thấy buồn khổ vì một tội
trọng phạm trước đó.
Sai lầm thứ năm và là sai lầm chính: “Nếu chị đơn giản tiến lên rước lễ, có lẽ
tôi sẽ không từ khước chị. Trước hết, mọi điều tôi biết về mối liên hệ của chị
đã phát xuất bên trong khuôn khổ bí tích giải tội. Bên ngoài bí tích này, tôi
không thể ‘sử dụng’ thông tin này bất cứ cách nào, chắc chắn không phải qua việc
công khai từ khước việc rước lễ của chị”.
Cha (Keller) phần lớn
đúng khi nói tới các qui định về ấn tín tòa giải tội (*), nhưng việc ngài hiểu
biết về tư thế hôn nhân của Irma không phải là cái hiểu hợp bi tích: tư thế của
Irma trong tư cách đã kết hôn theo giáo luật/dân luật với Francisco ở El
Salvador và trong tư cách kết hôn theo dân luật với Tony ở Hoa Kỳ là vấn đề thuộc
hồ sơ công cộng (public record), cho dù các hồ sơ công cộng rất khó lục tìm
trong trường hợp hết sức bất thường này. (Cha) Keller, nhân dịp này, còn cho biết
rằng gia đình của Irma đang ở Hoa Kỳ và nhờ (Cha) Keller, họ còn biết chị đã kết
hôn.
Dù sao, ở đây, ta cũng thấy
vấn đề căn bản trong việc tiếp cận vấn đề cho phép người Công Giáo ly dị tái
hôn rước lễ như Niềm Vui Yêu Thương đã làm, là, không nhắc gì đến Giáo Luật Điều
915 (hay điều 916, nhưng việc không trực tiếp nhắc đến điều 915 trong các hoàn
cảnh như của (Cha) Keller là điều tồi tệ hơn); đây là điều giáo luật, như đã
nói nhiều lần, đòi các thừa tác viên Thánh Thể không cho rước lễ những ai “cố
chấp sống trong một tội nặng công khai”. Bất luận cách nào, thì trường hợp của
Irma cũng thuộc hoàn cảnh cổ điển của “tội ngoại tình công khai và vĩnh viễn”(Giáo
luật điều 2384) và (Cha) Keller nên không cho chị rước lễ kẻo phạm tội sao lãng
bổn phận theo điều 915 trong tư cách một linh mục của Chúa Kitô và là thừa tác
viên của Giáo Hội Công Giáo.
Cha Keller, chỉ dựa vào
Niềm Vui Yêu Thương, nên đã sa vào một sai lầm nghiêm trọng. Dù không hoàn toàn
quả quyết, nhưng Niềm Vui Yêu Thương đã giả định rằng lương tâm cá nhân (một
lương tâm tất nhiên rất phức tạp và thường phải đối phó với các trường hợp khó
khăn, và không bao giờ người khác biết hết được, và thường chỉ được thông tri một
phần…) là trọng tài cuối cùng quyết định liệu một người rước lễ có được rước lễ
hay không, như thể chỉ có điều giáo luật 916 (là điều phần lớn người ta coi là
điều giáo luật xét tới lương tâm) là có ở trong sách và là điều qua đó người
ta, trong một số trường hợp giả định nào đó, thấy một người có tội nặng khách
quan tiến lên rước lễ nhưng hành vi này không bị coi là có tội, trong khi giáo
luật điều 915, tức điều đòi các thừa tác viên phải quyết định phân phát Mình
Thánh theo các tiêu chuẩn khách quan, thì không hề có.
Việc bác bỏ có tính cùng
khắp và cương quyết của hầu hết các người “bênh vực Niềm Vui Yêu Thương” không
chịu giáp mặt với truyền thống lâu đời và qui luật không hàm hồ của điều giáo
luật 915 khiến mọi việc bênh vực cho văn kiện này ít nhất cũng vô căn cứ mà tệ
nhất gây thảm họa cho tín lý.
Sai lầm thứ sáu: (Cha)
Keller phát biểu cách khác về chủ trương của ngài rằng: để xây dựng, ngài không
biết gì về hoàn cảnh của Irma (theo nghĩa: một cách giả định, cha chỉ biết hoàn
cảnh của chị nhờ tòa giải tội, nên về phương diện giáo luật, ngài không “biết”
gì về nó) để có thể chủ trương rằng sẽ là điều sai lầm nếu cha không cho Irma
rước lễ, người, cũng như các người Công Giáo khác quả có quyền được rước lễ.
Nhưng theo Ông Peters, điều
ngược lại mới đúng: để xây dựng, (Cha) Keller biết rõ tư thế bất hợp lệ khách
quan của Irma vì sự kiện chị đã bước vào hai nghi lễ công cộng, cả hai đều được
coi là đám cưới. Như thế, cha buộc phải hành động phù hợp với luật lệ cai quản
các hoàn cảnh này. Ông Peters cũng thêm một nhận xét vắn tắt ở bên lề: nếu
(Cha) Keller thực sự nghĩ rằng các hoàn cảnh cưới xin trước đây ở ngoại quốc
không bao giờ ra ánh sáng nữa, và các hành động của cha lúc cha nghĩ nó sẽ
không bao giời bị tra hỏi sau này, thì quả thực ngài quá ngây thơ.
Sai lầm thứ bẩy: “Dựa
trên tất cả mọi điều tôi biết trong tư cách một linh mục liên quan tới tội lỗi,
lương tâm, hy vọng, Chúa Giêsu, giáo huấn của Giáo Hội, và nhất là chỉ thị mà
Giáo Hội đã nhận được từ Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Niềm Vui Yêu Thương, tôi
nói với Irma, ‘Nếu con chân thành tin trong lương tâm của con rằng đây là cách
Chúa Kitô có thể giúp con lớn lên trong sự thánh thiện, thì, được. Con được lên
rước lễ’".
Lời khuyên trên sai. Đã
đành, có lẽ nếu dựa vào một số điều mà (Cha) Keller không biết về “tội lỗi,
lương tâm, hy vọng, Chúa Giêsu, giáo huấn của Giáo Hội, và nhất là chỉ thị mà
Giáo Hội đã nhận được từ Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Niềm Vui Yêu Thương”,
thì cha còn có thể vô tội mà đạt tới kết luận và đưa ra lời khuyên tồi tệ ấy,
nhưng các kết luận và lời khuyên của ngài vẫn sai. Đàng khác, một người ở địa vị
của cha, từng được cảnh cáo có thể mắc nhiều sai lầm trong suy nghĩ của mình đến
thế, thì theo Ông Peters, người này nên nghiên cứu các vấn đề này sâu sắc hơn
và đưa ra các lời khuyên phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội.
Để kết luận, Edward
Peters cho rằng: “Vì (Cha) Keller nghĩ ra một giả định nghe được để minh họa
các ưu điểm của việc ngài cho Irma rước lễ, liệu tôi có được phép đưa ra một giả
định cũng nghe được để minh hoạ các nguy hiểm trong giả định của ngài không? Một
ngày kia, chuông cửa nhà Irma, người tái hôn dân sự lên rước lễ, bỗng vang lên.
Francisco đứng đó, đời anh đã hết phải ngồi tù, nhưng nhờ ơn Chúa và sau khi
cân nhắc các sự thật khó nhá anh từng nghe được từ các thừa tác viên Công Giáo
trung thành ở trong nhà tù, anh đã khẩn khoản xin Irma tha thứ… và cam kết sẽ
tái đảm nhiệm nhiệm vụ làm chồng…, cảm thấy đã được uốn nắn, trở thành khiêm tốn
và biết ơn nếu được cơ hội thứ hai. Đến lúc này, anh mới biết (Cha) Keller đã
làm trơn tru con đường để Irma sống trong một cuộc kết hợp sai lầm với sự chúc
phúc rõ ràng của Giáo Hội. Người ta sẽ phải so sánh thế nào giữa các thất bại của
Francisco (theo [Cha] Keller, phát sinh từ cảnh nghèo và các áp lực băng đảng
ma túy) với các thất bại của (Cha) Keller được yên ổn lên tiếng ở Hoa Kỳ và chỉ
phải đối diện với các câu hỏi của một người đàn bà Công Giáo bối rối?”
___________________________________________________________________________
(*) Về ấn tín này, Edward
Peters xin thêm ít lời. Nói cho đúng, (Cha) Keller đã du nhập một sự kiện có
tính thay đổi cuộc cờ khi quả quyết rằng mọi tín liệu ngài có được đều thuộc
tòa giải tội. Dĩ nhiên, điều này sẽ tiêu hủy bất cứ việc áp dụng điển hình nào
của ngài vào phần lớn các trường hợp đời thực của Niềm Vui Yêu Thương (và bất cứ
trường hợp luân lý nào) vì tín liệu của ấn tín tòa giải tội không thể bị sử dụng
cho bất cứ điều gì có hại cho hối nhân. Cho dù một hối nhân có chính xác xưng một
tội trọng, nhưng không ân hận về tội này, và sau đó, tiến lên rước Lễ, vị linh
mục cũng không được từ chối cho họ rước lễ, như tôi (cùng với nhiều người khác)
vốn đồng ý. Nhưng lối phát biểu của (Cha) Keller khiến một số người nghĩ rằng
tư thế kết hôn công khai về giáo luật, cả kết hôn dân luật cũng thế, là điều
không đủ để hành động ở tòa ngoài trừ khi tư thế ấy cũng được một số thành phần
đáng kể trong cộng đoàn biết đến thực sự. Điều này không đúng và do lời tường
thuật của chính (Cha) Keller, một số người khác có biết đến cuộc hôn nhân đầu của
Irma.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét