TÌNH HIỆP NHẤT
(đăng
báo ĐMHCG, tháng 1-2017, DCCT xuất bản tại Hoa Kỳ)
Wed,
04/01/2017 -Trầm Thiên Thu
Hiệp Nhất Kitô Giáo là ân
sủng cần thiết trong đời sống Kitô hữu, Giáo Hội mời gọi chúng ta tha thiết cầu
xin Thiên Chúa ban hồng ân này để tất cả mọi Kitô hữu biết sống trung thành với
giáo huấn của Chúa, bằng nỗ lực cầu nguyện không ngừng và thể hiện tình bác ái
huynh đệ, nhờ đó mà phục hồi mối hiệp thông của Giáo Hội, cũng như bằng việc hợp
tác để có thể đối đầu với các thách đố mà nhân loại đang gặp phải – nhất là
trong thời đại ngày nay có nhiều mối chia rẽ.
Thánh Phaolô đã kêu gọi mọi
người hiệp nhất: “Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại,
bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau. Chỉ có một thân thể, một Thần Khí,
cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một
Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng
ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4:3-6). Lời kêu gọi
này cần để thức tỉnh người xưa, nhưng ngày nay vẫn thực sự cần lời mời gọi này
– thậm chí còn cần hơn ngày xưa nữa.
HIỆP NHẤT THIÊN CHÚA
Trang
All-About-The-Virgin-Mary.com có đề cập vấn đề Hiệp Nhất Bản Thể (Hypostatic
Union). Đó là sự kết hợp của nhân tính và thần tính trong Ngôi Lời – Thiên Chúa
Ngôi Hai, Đức Giêsu Kitô. Tính từ “hypotatic” có nguồn gốc từ Hy ngữ là
“hupóstasis”, nghĩa đen là “nền tảng”. Các triết gia Hy Lạp dùng thuật ngữ này
để diễn tả thực tế khi đối nghịch với bề ngoài. Hiệp nhất bản thể là thuật ngữ
thần học dùng để định nghĩa Mầu Nhiệm Nhập Thể. Giáo Hội xác định niềm tin vào
sự Nhập Thể là nền tảng Giáo lý Công giáo: Thần tính và Nhân tính của Đức Kitô
được kết hợp về bản thể, kết hợp với Con Người Thiên Chúa (Divine Person, De
Fide). Thánh Phaolô nói: “Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực
của bản thể Thiên Chúa” (Dt 1:3a).
Do đó, Chúa Giêsu là
Thiên Chúa thật và Con Người thật. Khoảnh khắc này trong lịch sử của con người
xảy ra trong khi Truyền Tin, Sứ thần Gabriel giới thiệu Kế Hoạch của Thiên Chúa
cho Trinh Nữ Maria. Khi Đức Mẹ nói lời “xin vâng” (fiat) với những từ mang tính
quyết định: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ
thần nói” (Lc 1:38), qua tác động siêu nhiên của Chúa Thánh Thần, Con Thiên
Chúa đã ngự vào cung lòng Trinh Nữ. Như vậy là hoàn tất lời tiên tri của Ngôn sứ
Isaia về việc thụ thai mà vẫn đồng trinh và sinh con được gọi là Emmanuel,
nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Khi Chúa Giêsu ngự vào
cung lòng Trinh Nữ, có vài điều xảy ra ngay lập tức và cùng một lúc: Linh hồn
con người của Đức Kitô được Chúa Cha tác thành; linh hồn con người đó được truyền
vào và kết hợp với thân thể đã được chuẩn bị đặc biệt cho sự kết hiệp đó bằng
tác động siêu nhiên của Chúa Thánh Thần; và nhân tính được nhận lấy nơi Ngôi
Hai, Ngôi Lời của Thiên Chúa.
Lưu ý động thái NGAY LẬP
TỨC và CÙNG MỘT LÚC. Mọi hành động xảy ra đồng thời, không hành động nào trước
hoặc sau. Thánh Grêgôriô viết: “Nhân tính của Đức Kitô không có trước rồi sau
đó Ngôi Lời mới nhận lãnh, nhưng được tạo tác ngay khi được nhận lãnh”.
Đức Giêsu Kitô là thiên
chúa hoàn hảo và Con Người hoàn hảo. Vì Ngôi Lời là Thiên Chúa hoàn hảo, tiếp
theo là nhân tính của chúa giêsu cũng hoàn hảo. Khi bùng nổ tranh luận trong
Giáo Hội thời sơ khai vì giáo huấn sai lệch của Nestorius (1), Công đồng Êphêsô
(năm 431) tuyên bố Đức Trinh Nữ Maria là Theotókos (Θεοτόκος – Người mang Thiên
Chúa, Mẹ Thiên Chúa), chứ không chỉ là Christokos (ξριστοκος – Người mang Đức
Kitô, Mẹ của Đức Kitô). Tà thuyết của Nestorius là sai lầm vì khái niệm về sự
hiệp nhất bản thể và giải thích rằng Đức Mẹ chỉ mang nhân tính của Ngôi Lời
trong cung lòng chứ không mang toàn bộ Ngôi Lời có hai bản tính.
Về bản chất, tà thuyết
Nestorius cho rằng có hai con người riêng biệt để diễn tả Ngôi Lời. Họ tin một
cách sai lầm rằng có một Thiên Chúa là Con Thiên Chúa và một con người khác là
Con Người, con của Đức Maria. Với họ, hai con người này chỉ kết hợp về luân lý,
và vai trò của Đấng Cứu Độ là phù hợp với Con Người của Đức Kitô!
Sau đó, một người tên là
Eutyches lo sợ với niềm tin lệch lạc này của tà thuyết Nestorius và quy định
cách hiểu riêng, cho rằng Ngôi Lời chỉ gồm một người nhưng cũng có một bản
tính, một bản tính kết hợp cả yếu tố thần linh và phàm nhân. Đó là tà thuyết
Monophysitism (2), do chữ monophysis – nghĩa là một người và một bản tính. Như
vậy, Ngôi Lời không hoàn toàn là Thiên Chúa và cũng không hoàn toàn là Con Người,
mà là nửa này nửa kia.
Đối với họ, nhân tính của
Đức Kitô được thần tính biến đổi hoặc thu hút. Có lầm lẫn chăng? Một số người
đi xa hơn và nói rằng sự kết hợp hai bản tính thành một sẽ tạo nên bản tính thứ
ba! Các tà thuyết này hoàn toàn bị Giáo Hội Công giáo bác bỏ tại Công đồng
Chalcedon (năm 451) và dẫn đến việc hình thành Tín Điều Chalcedon.
Các tà thuyết lớn này đặt
vấn đề về sự kết hợp thần tính và nhân tính trong Ngôi Lời và có nhiều cách diễn
tả khác nhau. Tà thuyết Kitô giáo này nổi tiếng trong là tà thuyết Arian (3).
Constantine là một người theo tà thuyết Arian, như đa số quân đội La Mã – mặc
dù ông ta vẫn ủng hộ Kitô giáo cùng với nỗ lực của người mẹ (Thánh Helena) thu
gom và duy trì nhiều thánh tích, kể cả thánh tích Thánh Giá thật – và gia nhập
Công giáo trước khi chết. Thánh Athanasiô đã dành nhiều thời gian giảng thuyết
chống lại tà thuyết Arian, có lúc có lời thề hứa trung tín của hơn một nửa thế
giới Kitô giáo.
Khi còn tại thế, Chúa
Giêsu đã chịu đựng những điều như nhân loại phải chịu. Ngài đã chịu sinh ra
trong hoàn cảnh nghèo nàn, nhận sự bảo bọc của Thánh Gia. Ngài lao động, cầu
nguyện, ăn uống, sinh hoạt bình thường như chúng ta… và cũng học hỏi Kinh
Thánh. Ngài trở thành thợ mộc theo cách hướng dẫn và sự giám hộ của Dưỡng Phụ
là Đức Thánh Giuse. Qua động thái bí nhiệm, thần tính của Ngài có thể “bị đè
nén” đến nỗi Ngài chỉ biết Chúa Cha đã chọn cách mặc khải cho Ngài trong những
hoàn cảnh riêng.
Chúa Giêsu cũng mỏi mệt
(Ga 4:6), cũng bật khóc vì thương Ladarô (Ga 11:35), rồi mới cho Ladarô sống lại,
Ngài cũng nếm trải sự rùng mình vì bị Satan cám dỗ (trước khi Ngài rao giảng
công khai) để cho chúng ta thấy cách chiến đấu trong những tình huống tương tự.
Đặc biệt là Ngài đã chịu cuộc khổ nạn và đau khổ dữ dội cho đến chết. Chỉ sau
khi chịu khổ nạn và chịu chết, Chúa Giêsu mới được lãnh nhận vinh quang.
Sự hiệp nhất bản thể sẽ
kéo dài đời đời. Đó không là điều được “thiết kế” chỉ cho thời đại mà Đức Kitô
– khi còn trên thế gian – để Ngài gánh tội của chúng ta và làm cho Mình, Máu,
Linh hồn, và Thần tính nguôi ngoai nhu cầu về Công lý Thiên Chúa (Divine Justice).
Như vậy, Thiên Chúa Giêsu có thể làm mọi thứ, Ngài cũng thể hiện về bản thể –
Mình, Máu, Linh hồn và Thần tính – trong mọi của lễ được thánh hóa và trong mọi
Nhà Tạm trên khắp thế giới, nơi Ngài luôn chờ đợi chúng ta kết hiệp với Ngài.
HIỆP NHẤT DÂN CHÚA
Trong Thánh Lễ kính Thánh
Danh Đức Maria năm 2016, ĐGH Phanxicô đã nói: “Sự chia rẽ đã phá hoại Hội Thánh
và ma quỷ nỗ lực tấn công vào gốc rễ của sự hiệp nhất, gốc rễ của sự hiệp nhất
là việc cử hành Thánh Lễ. Tôi nài xin anh chị em hãy làm tất cả những gì có thể
để đừng phá hoại Hội Thánh với những chia rẽ về tư tưởng, tham vọng… Trên tất cả,
hãy cầu nguyện và bảo vệ cội rễ hiệp nhất của Hội Thánh là thân thể Đức Kitô.
Đó là, hàng ngày chúng ta cùng nhau hiệp dâng lễ hy sinh của Chúa Kitô trong
Thánh Lễ”. Sống hiệp nhất là sống chứng nhân, rất cần thể hiện mỗi ngày đối với
mọi Kitô hữu.
Đề cập “Bữa Tiệc của
Chúa”, Thánh Phaolô nói: “Nhân lúc đưa ra các chỉ thị này, tôi chẳng khen anh
em đâu, vì những buổi họp của anh em không đem lại lợi ích gì, mà chỉ gây hại.
Thật thế, trước tiên tôi nghe rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ nhau, và
tôi tin là điều ấy có phần nào đúng. Những sự chia rẽ giữa anh em, thế nào cũng
có, nhưng nhờ vậy mới rõ ai là người đạo đức chắc chắn” (1 Cr 11:17-19 – x. Mt 26:
26-29; Mc 14:22-25; Lc 22:14-20).
Ngày nay cũng vẫn có những
mối chia rẽ tinh vi trong các cộng đoàn, với danh nghĩa tốt lành nhưng bên
trong đôi khi lại không hẳn như vậy, vì có những rạn nứt hoặc bè phái. Nói
chung, “cái tôi” vẫn lớn quá, thế nên nó muốn “nổi trội” hơn và muốn “đè bẹp”
người khác.
Ngày 21-11-1964, ĐGH
Phaolô VI đã ban hành Sắc Lệnh về Hiệp Nhất – “Unitatis Redintegratio” (Phục Hồi
Hiệp Nhất). Ngay đầu Chương I, Các Nguyên Tắc Công Giáo về Hiệp Nhất, sắc lệnh
này nói về Giáo Hội hiệp nhất và duy nhất: “Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng
ta đã hiển hiện trong việc Con Một Thiên Chúa đã được Chúa Cha sai đến thế
gian, để một khi hóa thân làm người, Người tái sinh toàn thể nhân loại bằng
cách cứu chuộc họ và đoàn tụ họ nên một. Trước khi tự hiến làm lễ vật tinh tuyền
trên thánh giá, Người đã cầu cùng Chúa Cha cho các tín hữu rằng: ‘Xin cho hết
thảy được hiệp nhất như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha vậy, để chính họ
cũng được nên một trong Ta và cho thế gian tin rằng Cha đã sai Con’ (Ga 17:21).
Người đã thiết lập trong Giáo Hội của Người nhiệm tích Thánh Thể kỳ diệu, vừa
là dấu chỉ vừa thể hiện sự hiệp nhất của Giáo Hội. Người ban cho các môn đệ Người
một giới răn mới là tình yêu thương nhau, và hứa ban Thánh Thần an ủi, Ðấng vừa
là Chúa vừa ban sự sống để ở với họ mãi mãi”.
Kinh Thánh cho biết:
“Giêrusalem khác nào đô thị được xây nên một khối vẹn toàn. Từng chi tộc, chi tộc
của Chúa, trẩy hội lên đền ở nơi đây, để danh Chúa, họ cùng xưng tụng” (Tv
122:3). Nói về Đền Thờ Giêrusalem, tòa nhà vật chất, nhưng ám chỉ sự hiệp nhất
của Giáo Hội – duy nhất, thánh thiện, công giáo, và tông truyền. Sự hiệp nhất
không chỉ là tình trạng cần thiết mà còn là một mối phúc, như Kinh Thánh ca tụng
về sự hòa thuận – tức là một dạng hiệp nhất: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh
em được sống vui vầy bên nhau” (Tv 133:1).
TRẦM THIÊN THU
CHÚ THÍCH:
(1) NESTORIUS (Nestorian
Church): một Giáo Hội Kitô giáo xuất hiện sau khi Nestorius bị lên án tại Công
đồng chung Êphêsô năm 431. Nhờ nỗ lực của Ibas, Giám mục thành Êphêsô từ năm
435, và Barsumas, Giám mục thành Nisibis từ năm 457, học thuyết Nestorius hay học
thuyết cảnh giáo được phát triển thành một thần học đầy đủ và chuyển đến Persia
và Tiểu Á, nơi một giáo phái nhỏ nhưng có ảnh hưởng được thành lập. Giáo Hội
Nestorius vẫn tồn tại ngày nay với tên gọi là Kitô hữu Assyria.
(2) MONOPHYSITISM: Nhất
tính thuyết, Kitô nhất tính luận. Hệ thống (tư tưởng) có tính lịch sử nổi lên
vào thế kỷ thứ năm, chủ trương rằng nơi Chúa Kitô chỉ có một bản tính. Đó là một
cách phản ứng lại Cảnh Giáo (Giáo thuyết Nestorius), một chủ thuyết cho rằng
Chúa Kitô có hai ngôi vị. Một trong những nhà Nhất Tính Thuyết sơ khởi là
Eutyches (378-454), đan viện trưởng một đan viện gần Constantinople.
Trong nỗ lực để bảo vệ
duy nhất tính của Ngôi Lời Nhập Thể, ông đã chủ trương bác bỏ nhân tính của
Chúa Kitô. Những nhà nhất tính thuyết khác đề cập đến một bản tính duy nhất kết
hợp cả nhân tính và thần tính. Bị kết án bởi Công Đồng Chalcedon năm 451, nhất
tính thuyết vẫn còn thịnh hành ở Đông phương, nhất là những người thuộc nghi lễ
Copt và những người thuộc phái Jacobite ở Syria. Nguyên ngữ Hy Lạp, monos: đơn
nhất, chỉ một + physis: bản tính.
(3) ARIANISM: Thuyết của
Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi
Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của
Chúa Giêsu. Công đồng Nicaea (AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng
bản thể với Đức Chúa Cha”. Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm
sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và
Theodosius lên ngôi.
Công đồng Constantinople
đầu tiên (năm 381) đã phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và cấm tà thuyết
Arian. Nhưng tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ VII,
và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng của
Giavê (Jehovah's Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận
(Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể – Một Chúa Ba Ngôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét