GIỜ THƯƠNG XÓT
( Thứ Sáu
Tuần Thánh – Ngày Đại Tang )
(Wed,
23/03/2016 - Trầm
Thiên Thu)
Bửu
Huyết Giêsu tươi màu Cứu Độ
Oan
khiên thế giới hóa sắc trong ngần
Thứ Sáu
Tuần Thánh là Ngày Đại Tang của Kitô giáo – nói riêng, và của cả nhân loại –
nói chung. Thứ Sáu Tuần Thánh là đỉnh cao của Ơn Cứu Độ, đặc biệt là Giờ Thứ
Chín (tức 3 giờ chiều), giờ của Lòng Chúa Thương Xót. Không có Lòng Chúa Thương
Xót thì nhân loại chỉ là hư vô!
Cuộc chia
ly nào cũng bịn rịn, lưu luyến, đau khổ và đẫm đầy nước mắt, nhất là cảnh biệt
ly khi người thân về bên kia thế giới. Lúc hấp hối là “phút cuối” của một con người, là lúc xúc động nhất đời người – dù
người đó đáng yêu hay đáng ghét. Càng xúc động hơn khi thấy người hấp hối chịu
đau nhức quằn quại từng cơn, có những người toát mồ hôi hột nhưng âm thầm chịu
đựng, có những người phải la hét dữ dội. Giây phút biệt ly thường là khoảnh
khắc ngắn ngủi, chỉ trong chốc lát, nhưng lại nặng nề trôi… ngỡ như thăm thẳm!
Và giây phút cuối đời cũng là lúc người ta nói thật nhất.
Chúa Giêsu
có hai bản tính: Thần Tính và Nhân Tính (1). Về nhân tính, Ngài cũng rất đau
đớn vì đã kiệt sức do đòn roi suốt đêm, vác Thập Giá lên đồi cao theo con đường
gập ghềnh, ngoằn ngoèo, Ngài té lên té xuống nhiều lần, trong khi phải chịu đói
chịu khát vì mất máu nhiều, Ngài còn bị những gai nhọn đâm thấu đầu, tiếp theo
lại bị đinh ghim chặt chân tay, và cuối cùng bị lưỡi đòng đâm thâu tim. Rất đau
đớn. Rất nhức buốt. Chúng ta không thể tưởng tượng nổi. Thân xác Ngài tàn tạ,
tiều tụy, tơi tả, đến giọt Máu và giọt Nước cuối cùng cũng chảy ra hết vì
thương xót nhân loại. Chúng ta chỉ bị cái dằm đâm vào tay cũng la toáng lên
rồi!
CON
CHIÊN HÀM OAN
Từ ngàn
xưa, qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã minh định: “Người tôi trung của Ta sẽ
thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng” dù cho “tôi
trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa”
(Is 52:13-14). Nhưng mọi người đều phải sửng sốt khi thế cờ đảo ngược hoàn
toàn. Người tôi trung đó làm cho “muôn
dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng” (Is 52:15). Người tôi trung đó
là Đức Kitô, cũng chính là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ, Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ, “như
chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Ngài chẳng mở miệng
kêu ca” (Is 53:6; Cv 8:32).
Chúng ta
đã được biết về “hành trình đau khổ”
của Chúa Giêsu, nhưng có lẽ khó mà cảm nhận hết mức đau khổ, thậm chí có thể
nghe nhiều năm đã quen tai nên vẫn thấy… bình thường, và cũng chỉ là “chuyện nhỏ”. Kinh Thánh cũng đã nói: “Điều
chúng ta đã nghe, ai mà tin được?” (Is 53:1). Thật khó tin, nhưng lại hoàn
toàn là sự thật!
Ngôn sứ
Isaia mô tả chi tiết: “Người tôi trung đã lớn lên tựa chồi cây trước Nhan
Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn. Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai
phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích.
Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật.
Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm
xỉa tới” (Is 53:2-3). Tuy nhiên, “chính
người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của
chúng ta, còn chúng ta lại tưởng Ngài bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải
nhục nhã ê chề” (Is 53:4). Thật nghịch lý, có lẽ vì chúng ta quá ảo tưởng!
Bảng đối
chiếu liệt kê rõ ràng: “Chính Ngài đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, Ngài bị
nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, Ngài đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an,
Ngài đã phải mang thương tích để chúng ta được chữa lành” (Is 53:5). Trí óc
loài người không thể tưởng tượng nổi có một Con Người lạ lùng như vậy. Nếu cuộc
đời có ai gần giống như vậy thì ắt chúng ta cho là “dại dột”, là “ngu xuẩn”,
là “điên khùng”, là “mất trí”, là “tâm thần”. Thiên Chúa thấy “tất
cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả”, nhưng
Đức Chúa đã đổ tội lỗi của tất cả chúng ta lên đầu Người-Tôi-Trung kia. Người
Ấy bị lũ-người-ghen-tị “ngược đãi mà vẫn
cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm
nín khi bị xén lông, Người Ấy chẳng hề mở miệng” (Is 53:6). Người Ấy còn “bị ức hiếp, bị buộc tội, rồi bị thủ tiêu”
(Is 53:8a). Thậm chí “Người Ấy còn bị
khai trừ khỏi cõi nhân sinh”, và “vì
tội lỗi của dân, Người Ấy bị đánh phạt” (Is 53:8b). Người Ấy chịu đủ thứ
khổ hình vì các tội nhân là chúng ta, chứ Người Ấy chỉ bị hàm oan, vì Người Ấy
hoàn toàn vô tội.
Cuối cùng,
Người Ấy đã “bị chôn cất giữa bọn ác ôn,
bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng không hề
nói chuyện điêu ngoa” (Is 53:9). Nhưng đó là Thánh Ý nhiệm mầu của Thiên
Chúa, để nhờ Người Ấy mà Ý Chúa được nên trọn. Thiên Chúa xác định: “Vì đã
nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên
công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53:11). Đức Giêsu đã “hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng
tội nhân; nhưng thực ra Ngài đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những
kẻ tội lỗi” (Is 53:12). Trong “núi
tội” đó có rất nhiều tội lỗi của mỗi chúng ta!
Thánh Vịnh
đã nói lời cuối của Người Ấy – một người trong cơn hấp hối: “Con ẩn náu bên
Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Bởi vì Ngài công chính,
xin giải thoát con. Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài đã cứu chuộc
con, lạy Chúa Trời thành tín” (Tv 31:2 & 6). Người Ấy tâm sự với Chúa
về cuộc đời mình: “Con đã nên trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng
giềng. Bạn bè thân thích đều kinh hãi, thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa.
Bị lãng quên, như kẻ chết không người tưởng nhớ, con hoá thành đồ hư vất bỏ”
(Tv 31:12-13). Là con người thì ai cũng cảm thấy cô đơn tột cùng khi ai
cũng khinh ghét và bỏ rơi mình nên nói vậy thôi, nhưng vẫn tin tưởng vào Chúa,
cho nên mới dám thân thưa: “Ngài là Thượng Đế của con. Số phận con ở trong
tay ngài. Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ, khỏi người bách hại con” (Tv
31:15-16).
Người Ấy
chấp nhận mọi thiệt thòi và luôn vững tin cầu khấn: “Xin toả ánh tôn nhan
rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ” (Tv 31:17),
đồng thời mạnh dạn chia sẻ với những người khác như một lời khuyên: “Hỡi mọi
người cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!” (Tv 31:25). Người
Ấy đã nêu gương sáng cho chúng ta, vì chúng ta cũng phải nên giống Người Ấy: “Nếu
thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước” (Ga 15:18).
Người Ấy là ai? Là Đức Kitô, là Thầy Giêsu, là Chúa của chúng ta.
Thánh
Phaolô minh định: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các
tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa” (Dt 4:14). Thánh Phaolô khuyên
chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin, và giải thích: “Vị Thượng Tế
của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta,
vì Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội.
Bởi thế, chúng ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng,
để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16). Trong các
ân sủng, Lòng Chúa Thương Xót là hồng ân cao cả và kỳ lạ vô cùng! Chúa Giêsu đã
trải qua nỗi đau khổ tột cùng nên Ngài rất thương xót chúng ta.
Khi còn
sống kiếp phàm nhân, và theo nhân tính, Đức Giêsu cũng đã từng lớn tiếng kêu
van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng
cứu Ngài khỏi chết. Ngài đã được nhậm lời vì có lòng tôn kính. Vâng phục không
là điều dễ, vì phàm nhân chúng ta đầy tự ái và kiêu sa, ngay cả Con Thiên Chúa cũng
đã “phải trải qua nhiều đau khổ mới học
được thế nào là vâng phục” (Dt 5:7). Thật không hề đơn giản chút nào! Nhưng
chính lúc đó là lúc bản thân đạt tới mức thập toàn để rồi “Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục
Ngài” (Dt 5:9). Trước khi vinh quang và được coi là công trạng thì luôn
phải trải qua chặng đường gian khổ. Đức Kitô cũng đã trải qua “chặng đàng Thánh Giá” và cái chết mới
tới sự phục sinh vinh quang.
ĐÓN NHẬN ĐAU KHỔ
Phúc Âm
hôm nay là bài trường ca đau khổ, là tấn bi kịch trầm hùng, là bộ phim dài sầu
thảm, Giáo hội gọi là Bài Thương Khó, thuật lại đầy đủ cuộc khổ nạn của Chúa
Giêsu. Bi kịch thảm thiết như vậy mà lại gọi là Phúc Âm, là Tin Mừng. Thật kỳ
diệu biết bao!
Chúng ta
thường nói: “Dòi trong xương dòi ra”. Một trong mười hai đệ tử “ruột” là Giuđa đã dùng nụ hôn để “chỉ điểm” mà bán rẻ Thầy mình với giá
quá bèo – không đáng bao nhiêu so với bình dầu cam tùng mà cô Maria (Ga 12:1-8;
x. Ga 11:1-2) đã xức chân Thầy Giêsu tại Bê-ta-ni-a.
Người ta
đã tìm mọi cách gài bẫy, lục soát, và đi bắt Chúa Giêsu như một tên côn đồ. Họ
ghen tị và sợ Ngài tiếm ngôi, giành quyền lực, lấy mất “chiếc ghế quyền lực”, thế nên họ làm mọi cách hạ nhục Ngài đủ mưu
đủ chước. Hàng ngày Ngài thường tụ họp với các môn đệ công khai mà họ không
bắt, thế mà họ lại cấu kết với đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisêu
để đi tìm bắt Ngài trong đêm tối, dùng vũ khí để đối với một người tay không và
thân cô thế cô – vì các môn đệ bỏ trốn hết. Thật là tồi và hèn hạ!
Khi Ngài
điềm nhiên hỏi họ tìm ai, họ ngang nhiên đáp: “Tìm Giêsu Nadarét”. Ngài
vừa nói “chính tôi đây”, họ lùi lại
và ngã xuống đất. Ngoạn mục thật! Ấy thế mà họ vẫn cố chấp, cố ý nhắm mắt chứ
không chịu mở mắt. Có lẽ lúc này Giuđa là người đắc chí nhất, vì có thể ông
cũng rất tin rằng Thầy mình “ngon”
lắm, quyền phép đầy mình, chúng chẳng làm gì được, mà ông lại có tiền tiêu xài
– tức là bọn thủ ác bị mắc lừa. Thế nhưng Ngài không dùng thần quyền của Ngài
vào chuyện không cần thiết. Đó là “cách
lạ” của Ngài. Trí óc phàm nhân chúng ta không thể nào hiểu nổi!
Họ lồm cồm
bò dậy. Ngài lại hỏi một lần nữa: “Các anh tìm ai?”. Họ vẫn cương quyết
như đinh đóng cột: “Tìm Giêsu Nadarét”. Họ vẫn không hề tởn chút nào.
Gan cóc tía. Lì thật! Và rồi Đức Giêsu thản nhiên nói: “Tôi đã bảo các anh
là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi thì hãy để cho những người này
đi” (Ga 18:8). Ngài không muốn bất kỳ ai phải liên lụy vì Ngài. Nhưng điều
đó ứng nghiệm lời Ngài đã nói: “Những người Cha đã ban cho con, con không để
mất một ai” (Ga 18:9). Tính nóng hơn Trương Phi, ông Simôn Phêrô bèn tuốt
gươm ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế mà “chơi”
một phát đứt tai phải của Man-khô. Một đường gươm tuyệt hảo y như xiếc! Thấy
vậy, Đức Giêsu bảo ông Phêrô: “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao
cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?” (Ga 18:11). Nghe vậy chưa chắc ai hiểu ý
Ngài nói.
Họ bắt
trói Ngài lại, rồi điệu Ngài đến ông Kha-nan là nhạc phụ ông Cai-pha. Ông
Cai-pha làm thượng tế năm đó. Chính ông này đã đề nghị với người Do Thái: “Nên
để một người chết thay cho dân thì hơn” (Ga 18:14). Nghe chừng nhân đạo
nhưng lại vô cùng thâm độc. Lúc đó có ông Simôn Phêrô và người môn đệ khác (tức
Gioan) đi theo Đức Giêsu. Gioan quen biết vị thượng tế nên được vào sân trong
của tư dinh của thượng tế. Còn ông Phêrô phải đứng ở phía ngoài, gần cổng.
Gioan ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phêrô vào. Gioan cũng “oai” thật, quen biết có khác!
Nhưng vấn
đề là người tớ gái giữ cổng nhận ra ông Phêrô “thuộc nhóm của Chúa Giêsu” nên ông chối ngay: “Đâu phải”.
Và ông chối phắt bất kỳ ai nhận ra ông, tổng công 3 lần trước khi gà gáy. Với
bản tính nhân loại nên ông rất sợ, sợ đến nỗi phát run ngay cả với mấy phụ nữ
chân yếu tay mềm. Tội nghiệp! Ông Phêrô nóng tính, thẳng như ruột ngựa, nhưng
cũng rất yếu đuối. Đó là “biểu tượng”
của chúng ta ngày nay!
Mặc dù
Chúa Giêsu bị bắt, bị trói, bị đánh đập, bị tra xét, bị hành hạ,… nhưng Ngài
vẫn thản nhiên và không nói gì, không nửa lời tự biện minh cho mình là đúng, không
một lời kêu oan nào!
Đến khi bị
tra hỏi về các môn đệ và giáo huấn, Đức Giêsu mới trả lời: “Tôi đã nói công
khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi
mọi người Do Thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại
hỏi tôi? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi
đã nói gì” (Ga 18:19-21). Ngài vừa dứt lời thì một tên trong nhóm thuộc hạ
vả vào mặt Ngài: “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?” (Ga 18:22). Hỗn
láo thật! Nhưng Ngài vẫn thản nhiên lý luận: “Nếu tôi nói sai, anh chứng
minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18:23).
Cách đối đáp và lý luận của Chúa Giêsu tuyệt vời quá!
Sau đó,
ông Kha-nan cho giải Ngài đến thượng tế Cai-pha, Ngài vẫn bị trói. Lúc đó trời
vừa sáng. Họ không vào dinh vì sợ bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. Họ
chỉ lo giữ bề ngoài mà không chú trọng bề trong. Đó là một dạng động thái
giả hình. Tổng trấn Philatô ra ngoài gặp họ và hỏi xem họ tố cáo Chúa Giêsu về
tội gì, nhưng họ đáp: “Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng
đem nộp cho quan” (Ga 18:30). Họ cố chấp và cố tình không thèm nhận những
hành động tốt của Chúa Giêsu. Trước áp lực của dân, ông Philatô hỏi Chúa Giêsu:
“Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. Đức Giêsu không nhận và nói: “Nước
tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ
của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước
tôi không thuộc chốn này” (Ga 18:36). Vậy mà ông Philatô vẫn không hiểu nên
hỏi: “Vậy ông là vua sao?”. Đức Giêsu đáp: “Chính ngài nói rằng tôi
là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích là làm chứng cho sự
thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Ông
Philatô “dốt đặc cán mai” nên ngớ ngẩn hỏi: “Sự thật là gì?” (Ga 18:38).
Theo tục
lệ của người Do Thái, vào mỗi dịp Lễ Vượt Qua, họ thường phóng thích cho một
tội nhân. Ông Philatô hỏi họ muốn tha Chúa Giêsu hay không, họ la to: “Đừng
tha nó, nhưng xin tha Baraba!” (Ga 18:40). Baraba là một tên cướp khét
tiếng, vậy mà họ còn thương mến và yêu quý hơn là Chúa Giêsu. Lạy Chúa tôi!
Thế là
tổng trấn Philatô truyền đem Đức Giêsu đi mà đánh đòn. Họ chụp lên đầu Ngài một
vòng gai và khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi mỉa mai: “Kính chào Vua
dân Do Thái!”, và vả vào mặt Ngài. Như vậy, nhân vị của Ngài đã bị khinh
miệt, nhân phẩm của Ngài bị chà đạp, và nhân quyền của Ngài cũng bị tước đoạt.
Ông Philatô dẫn Chúa Giêsu ra ngoài để đám đông thấy Ngài không còn hình tượng
một con người mà thương. Nhưng vừa thấy Ngài, các thượng tế cùng các thuộc hạ
liền kêu lên rằng: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Ga 19:6). Một lần nữa,
ông Philatô lại khiếp nhược nên bảo họ: “Các người cứ đem ông này đi mà đóng
đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy”
(Ga 19:6).
Một người
nắm quyền trong tay và biết rõ bị cáo không có tội mà vẫn không dám tha, người
đó quả là bất tài, vô dụng, ích kỷ, chỉ lo giữ “cái ghế” của mình, chỉ muốn lợi cho mình mà chà đạp người khác. Đó
là một dạng bóc lột, không tôn trọng công lý. Vậy người đó có đáng được tôn
trọng? Người nắm quyền lực mà không tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền,
không lấy dân làm gốc, làm sao quốc thái dân an?
Dù ai nói
ngả, nói nghiêng, nói xuôi, nói ngược, nói tới, nói lui, và họ có nói gì thì
Chúa Giêsu cũng chỉ im lặng. Ngài biết rằng có nói cũng vô ích, chỉ như nước đổ
lá môn, không bằng nói với đầu gối. Sau khi tòa tuyên án, bị cáo nào cũng có
quyền kháng cáo, nhưng “bị cáo” Giêsu
lại không có quyền tối thiểu đó. Nhân quyền của Ngài hoàn toàn bị tước đoạt! Và
Chúa Giêsu nói với ông Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu
Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn” (Ga
19:11). Nghe vậy, ông Philatô cũng thấy “nổi
gai óc” nên tìm cách tha Ngài, nhưng ông vẫn không dám quyết định theo
quyền hạn của mình vì áp lực dân chúng. Cách xử sự hèn nhát của Philatô cũng
chính là động thái hèn hạ của chúng ta ngày nay đối với tha nhân.
Cuối cùng,
ông Philatô cũng đành cho thi hành án tử đối với “tử tội công chính” là Chúa Giêsu. Họ bắt Ngài tự vác Thập Giá lên
đồi Gôngôtha, nghĩa là Cái Sọ – cũng gọi là Đồi Sọ, Can-vê, nơi xử tử các tội
nhân. Đồng án tử với Ngài có hai người khác nữa, hai người hai bên Chúa Giêsu.
Tấm bảng ghi “Giêsu Nadarét, Vua dân Do Thái” treo phía trên đầu Ngài,
được viết bằng 3 ngôn ngữ: Hípri, La Tinh và Hy Lạp (2). Các thượng tế không
đồng ý gọi Chúa Giêsu là “Vua dân Do
Thái”, nhưng ông Philatô nói: “Ta viết sao, cứ để vậy!” (Ga 19:22).
Philatô chỉ lăm le với người dưới quyền chứ không dám “nói mạnh” với đám đông nổi loạn, dù họ chỉ là đám dân đen!
Đóng đinh
Đức Giêsu vào thập giá xong, họ chia chác quần áo của Ngài. Họ muốn chế nhạo
Ngài chứ có gì đáng giá đâu! Lúc đó, Chúa Giêsu bắt đầu kiệt sức. Ngài trối Đức
Mẹ cho Gioan và trao Gioan cho Đức Mẹ. Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất.
Mất máu nhiều nên Ngài nói: “Tôi khát!” (Ga 19:28). Nhưng người ta lại
nỡ lấy miếng bọt biển thấm giấm chua mà cho Ngài giải khát. Nhắp xong, Đức
Giêsu nói: “Thế là đã hoàn tất!” (Ga 19:32). Rồi Ngài gục đầu xuống và
dâng trao Thần Khí.
Thứ Sáu
Tuần Thánh là ngày Đại Tang của Giáo hội. Sự kiện hôm nay là “nghi lễ của mọi nghi lễ”, là “hiến lễ của mọi hiến lễ”, là “thánh lễ của mọi thánh lễ”. Vì thế,
Giáo hội không cử hành thánh lễ mà chỉ có phụng vụ Lời Chúa, tôn kính Thánh Giá
và rước lễ.
Tình Giêsu
là “tình cho không biếu không”, nhưng
chúng ta thường có khuynh hướng “tội
nghiệp” Chúa Giêsu hơn là tội nghiệp chính mình. Khi Chúa Giêsu thấy có
nhiều phụ nữ, vừa đấm ngực vừa than khóc, trong đám đông đi xem Ngài lên đồi
chịu xử tử, nên Ngài đã quay lại và nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng
khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu”
(Lc 23:28).
Một điểm
khác chúng ta cần lưu ý là “tính a dua”,
như người ta thường nói: “Người ta làm sao thì tôi làm vậy, người ta làm bậy
thì tôi… làm theo”. Ui da! Thật là nguy hiểm, vì đó là lối sống quá tiêu
cực, không có lập trường, mạnh đâu âu đó!
Giờ Thương
Xót đã điểm. Người được lãnh Hồng Ân Thương Xót đầu tiên là tướng cướp Dismas,
tử tội cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu: “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi
trên Thiên Đàng” (Lc 23:43). Diễm phúc biết bao!
Hôm nay,
khi tưởng niệm cuộc khổ nạn và sự chết của Đức Giêsu Kitô, Giáo hội cầu nguyện
cho mọi tầng lớp trong xã hội, ước gì chúng ta cũng quyết tâm thực hành lời
Thánh Vịnh: “Hãy bênh quyền lợi kẻ mồ côi, người hèn mọn; minh oan cho người
khốn khổ, kẻ bần cùng, giải phóng ai hèn mọn, ai nghèo túng, cứu khỏi nanh vuốt
bọn ác nhân” (Tv 82:3-4). Đó là sống lòng thương xót. Chúng ta đã được Chúa
Giêsu thương xót, chúng ta không thể không thương xót người khác!
Ơn Cứu Độ
thật tuyệt vời: Máu Chúa đỏ tươi đã tẩy rửa tội nhân chúng ta nên trắng ngần.
Xin trọn đời tạ ơn Lòng Chúa Thương Xót.
Lạy
Thiên Chúa giàu lòng thương xót, chúng con thật khốn nạn mà vẫn tưởng mình tốt
lành hơn người khác, chúng con đã a dua và đồng lõa với cái ác mà cứ tưởng mình
chân chính hơn người khác. Chúng con chân thành thú nhận mọi lỗi lầm, thành tâm
xin lỗi Chúa và xin lỗi tha nhân. Xin thương xót chúng con và ban cho chúng con
được hưởng nhờ Ơn Cứu Độ của Con Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử
Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(1)
Thần Tính và Nhân Tính (8+8=16) của Chúa Giêsu:
●
THẦN TÍNH: Ngài được tôn thờ (Mt 2:2 và 11; 14:33); Ngài được gọi là Chúa
(Ga 20:28; Dt 1:8); Ngài được gọi là Con Thiên Chúa (Mc 1:1); Ngài được
người ta cầu xin (Cv 7:59); Ngài vô tội (1 Pr 2:22; Dt 4:15); Ngài biết
mọi sự (Ga 21:17); Ngài ban sự sống đời đời (Ga 10:28); Sự viên mãn của thần
tính có nơi Ngài (Cl 2:9).
● NHÂN
TÍNH: Ngài tôn thờ Chúa Cha (Ga 17); Ngài được gọi là người (Mc 15:39; Ga
19:5); Ngài được gọi là Con Người (Ga 9:35-37); Ngài cầu nguyện với Chúa Cha
(Ga 17); Ngài bị cám dỗ (Mt 4:1); Ngài lớn lên trong sự khôn ngoan (Lc 2:52);
Ngài chịu chết (Rm 5:8); Ngài có xương thịt (Lc 24:39).
(2)
Híp-ri: יסוע נצריא מלכא דיהודיא; Latin: Iēsus Nazarēnus, Rēx
Iūdaeōrum; Hy Lạp: Ιησουσ Ο Ναζωρεοσ Ο Βασιλευσ Των Ιουδαιων.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét