Người Mẹ Tập Kết
(Một ứng dụng tâm lý giáo dục)
(Sat, 05/03/2016 - Trần Mỹ Duyệt)
Tôi không
khó khăn nhận ra mẹ khi bà vừa bước ra khỏi trạm kiểm soát an ninh phi
trường. Một tay kéo chiếc valy nhỏ, một vai mang chiếc xách tay, mẹ thong dong
như trôi theo dòng người. Dáng mẹ trông mảnh mai, thanh nhã, linh hoạt dù rằng
đã ở cái tuổi tám mươi. Tóc đã bạc phơ. Chiếc áo sơ mi màu trắng như giúp khuôn
mặt mẹ tươi tắn hơn ngày tôi gặp mười lăm năm trước. Mẹ đưa mắt tìm kiếm. Tôi
giơ tay vẫy. Bà mừng rỡ vẫy lại. Tôi cười khi mẹ đến gần:
-
Chào
mẹ!
Mẹ
buông rơi chiếc va ly, mở vòng tay ôm ghì lấy tôi. Tôi cũng ôm xiết mẹ mà sao
không cảm nhận chút nồng ấm nào.
Từ
khi chưa đầy một tuổi, ba mẹ tôi đã đành đoạn bỏ rơi tôi. Thôi nôi, ngoại cúng
kiến van vái. Lên ba, ông ngoại mất. Lên năm, bà ngoại lìa đời.
Cậu mợ tôi thừa
hưởng gia sản nên… thừa hưởng luôn việc săn sóc dưỡng dục tôi. Vì vậy mà khi
khôn lớn, tôi hầu như quên hẳn mình còn đủ cha đủ mẹ.
Tôi
lái xe vào trung tâm thủ đô, chạy vòng vòng cho mẹ xem phố xá rồi quẹo sang
đường Constitution. Tôi chỉ mẹ xem đài tưởng niệm Washington, tòa Bạch ốc và
hứa một ngày khác sẽ đưa mẹ vào xem tận bên trong. Mẹ nói mẹ muốn ưu tiên gặp
em của mẹ, còn việc tham quan chừng nào cũng được. Tôi cho mẹ biết cậu mợ đang
chu du Âu châu, hai tuần nữa mới về. Sợ mẹ hiểu lầm, tôi giãi bày:
-
Cậu
mợ ghi tên đi chơi trước ngày mẹ báo tin qua đây nên không hủy bỏ được. Con đã
xin nghỉ một tháng. Trong tháng đó mình sẽ đi một vòng sơ khởi nước Mỹ. Mẹ sẽ
gặp em trai mẹ vào tuần lễ thứ ba...
Tôi
ngưng nói khi thấy mẹ xoay mặt về khung cửa kính. Nhân lúc xe qua cầu, tôi cất
cao giọng:
-
Đây
là sông Potomac. Đi xuôi dòng sẽ trông thấy một phần hình ảnh rất đẹp của thủ
đô. Nhà của con phía thượng dòng cách đây độ nửa giờ.
Mẹ
vẫn nhìn quang cảnh thành phố, chỉ có tiếng “thế
à” hờ hững vang lên. Tôi nhìn đồng hồ và mừng là đã tới giờ cơm chiều. Tôi
nói nhỏ nhẹ:
-
Suốt
ngày đêm trên máy bay, chắc mẹ thèm cơm. Khu thương mại Eden của người Việt
vùng này có một nhà hàng nấu món canh chua cá bông lau, cá kho tộ ngon lắm!
Bà
nói giọng mệt mỏi:
-
Nói
chung thì mẹ thèm một tô phở.
Một
cái gì nghẹn ngào đột ngột trào dâng trong tôi. Hai mươi năm tập kết ra Bắc mẹ
đã bị đồng hóa. Không chỉ thay đổi cả giọng nói, ngôn từ mà lơ là luôn cả món
ăn ưa thích của miền Nam. Tôi ngờ rằng bà không phải là người sinh ra tôi… Tôi
đưa mẹ vào tiệm Phở Xe Lửa và gọi tô đặc biệt. Mẹ khen ngon hơn phở ở Sài Gòn. “Nhưng vẫn thua phở Hà Nội”, tôi nhanh
nhẩu tiếp lời. Mắt mẹ thoáng chút ngạc nhiên rồi lặng lẽ quan sát xung quanh…
Tôi
cũng quan sát bà. Tôi giống mẹ lạ lùng. Chắc chắn nhìn chúng tôi, không ai nghĩ
khác hơn là mẹ và con. Mà giống mẹ để làm gì khi tâm hồn chúng tôi không có
chút gì hòa điệu… Tôi nhấn một chiếc nút trên trần khi xe sắp quẹo vào driveway
và lái thẳng vào garage. Trong khi tôi mở cóp nhấc xuống các hành lý, mẹ đi ra
phía trước đường. Tôi bước đến bên mẹ khi bà ngắm nghía ngôi nhà, trầm trồ:
-
Nhà
của con đây hả? To và đẹp quá, ngoài tưởng tượng của mẹ. Quang cảnh cũng thật
sáng sủa tươi mát.
Tôi cười buồn:
-
Chúng
con mới mua năm ngoái và chắc cũng sắp bán…
Giọng
mẹ thảng thốt:
-
Tại
sao thế?
Tôi
nắm cánh tay mẹ dìu đi:
-
Mẹ
vào nhà nghỉ ngơi. Từ từ rồi mẹ sẽ biết...
Tôi
bấm số liên hợp và mở toang cánh cửa. Mẹ bước vào, đứng sững người trên tấm
thảm nhỏ mang chữ welcome. Dường như mẹ không tin những gì mẹ đang thấy. Mẹ
ngập ngừng bước đi, mắt dừng lại từng vật trang trí ở phòng khách, phòng gia
đình, miệng lẩm bẩm lời tán thưởng. Khi mẹ hướng về khu bếp, tôi biết mẹ sẽ ở
đây lâu hơn nên lặng lẽ trở ra ngoài mang hành lý vào nhà. Khóa cửa xong, tôi
đảo mắt tìm mẹ. Bà đang ở trong phòng đọc sách, đứng lặng yên trước bàn thờ. Mẹ
không nhìn các tượng Phật rất đẹp tôi thỉnh tận Thái Lan.
Mắt
mẹ đang đăm đăm nhìn di ảnh của Huy. Anh mặc áo tiểu lễ hải quân với dây biểu
chương, trên một nắp túi là chiếc huy hiệu hạm trưởng và bảng tên Lê Quang Huy.
Bên kia là hai hàng huy chương nhiều sắc màu khác biệt. Và Huy đang tươi cười…
Mẹ nói bằng giọng ngạc nhiên mà bình thản:
-
Sao
con không nói gì với mẹ?
Tôi lắc đầu:
-
Để
làm gì? Mẹ có biết gì về ảnh đâu và chắc cũng không ưa ảnh!
Mười
lăm năm trước, khi về chịu tang ba tôi, tôi đã từ chối trả lời mọi câu hỏi của
mẹ. Tôi muốn cho thấy khi bà đã có can đảm bỏ rơi tôi thì tôi cũng có can đảm
coi như đời tôi không dính dáng gì tới bà. Mãi gần đây, khi mẹ ngỏ ý muốn qua
thăm chúng tôi, Huy khuyên tôi nhận lời, dù gì bà cũng là người sinh thành ra
mình. Tôi nghe lời khuyên nhưng chỉ một mình tiếp đón mẹ. Huy chết bất thần vì
cơn đột quỵ. Mẹ nhìn khắp bàn thờ rồi quay phắt sang tôi:
-
Sao
không thấy con thờ ba con?
- “Thờ ba? Tại sao con phải thờ ba?
Mặc
dù đã tự nhủ, tôi vẫn không dằn được cơn bực tức bùng vỡ.
Mẹ quay
đi, lặng lẽ thắp nén nhang cắm vào lư hương, nhìn Phật Bà, nhìn Huy rồi thở dài
lặng lẽ bước lên thang lầu. Tôi đã từng nghe nhiều tiếng thở dài tương tự của
mẹ trong suốt thời gian mười ngày về dự đám táng ba tôi. Tôi đã cho bà thấy tôi
không chỉ dửng dưng với người chết mà còn lạnh lùng với cả người còn sống. Liệu
có ai cư xử khác tôi khi suốt quãng đời dài gần bốn mươi năm mà chỉ vài lần
được nghe nhắc đến mẹ cha mình bằng lối bông đùa.
Năm
tôi lên mười bốn, sau trận Mậu Thân khói lửa khắp Chợ Lớn Sài Gòn, một bữa, lần
đầu tôi nghe cậu nhắc tới ba mẹ.
Trong bộ
đồ trận rằn ri mang lon trung tá, cậu ra vẻ trịnh trọng:
-
Nè,
Phượng! Con có biết là suýt nữa con đã có dịp trùng phùng ba mẹ con không?
Trong
khi tôi tò mò lắng nghe, cậu tỉnh bơ tiếp:
-
Nhưng vì cậu thấy họ không xứng đáng làm bậc cha mẹ, cậu đã đuổi họ về mật khu
rồi!
Tôi thường
cười với mỗi cợt đùa của cậu nhưng lần đó tôi mím môi muốn khóc. Năm hai mươi
mốt tuổi, khi tôi đưa Huy về nhà giới thiệu nhân buổi tiệc mừng cậu thăng cấp
tướng, cậu nói nhỏ vào tai tôi:
-
Chà
chà! Như vầy là kẹt cậu rồi! Con mà chọn tên hải quân đó làm chồng thì cậu khốn
khổ với chị cậu. Tuy nhiên, nếu con… năn nỉ cậu, cậu cũng liều cho con làm… bà
thiếu tá.
Tôi
vẫn cười thầm về chuyện này vì bốn tháng sau, sự thể đảo ngược. Chính cậu lại
là người phải “năn nỉ” tôi để cả gia
đình được lên tàu của Huy rời khỏi Việt Nam.Chúng tôi thành hôn ở Mỹ. Huy trở
lại đại học, tôi đi làm ngày đêm. Rồi lần lượt hai đứa con ra đời. Huy ra
trường đi làm. Tôi vào đại học. Vất vả mà hạnh phúc. Tôi quá bận rộn để
nhớ về quê cha đất tổ, cho tới mười năm sau tôi mới lại nghe tin tức ba mẹ. Lại
vẫn do cậu đưa tin. Cậu tôi cho biết đã liên lạc được với chị của mình.
Không lâu
sau đó tôi liên tiếp nhận được thư ba mẹ tôi bày tỏ lòng khao khát mong nhận
được thơ tôi và hình ảnh gia đình. Và tiếp đến là những lá thư mong mỏi tôi về
Việt Nam. Tôi nhận thư, tôi đọc, lòng ngơ ngẩn, bâng khuâng nhưng không có chút
hứng thú trả lời. Thậm chí nhiều năm sau, cái tin ba tôi đau nặng cũng chỉ được
đón nhận với lòng dửng dưng. Huy bảo tôi nên về. Cậu mợ gọi điện bảo tôi phải
về. Tôi thưa với cậu mợ rằng tôi không có cha mẹ nào khác ngoài cậu mợ nhưng
cậu mợ tiếp tục thúc bách và giảng đạo lý. Tôi rủ cậu mợ cùng về. Cậu bảo cậu
không muốn giỡn mặt với chính quyền cộng sản.
Cuối
cùng tôi khăn gói một mình lên đường. Thời điểm này chúng tôi còn nghèo nên Huy
đành ở lại với hai con. Nhưng đoạn đường quá xa để ba tôi không thể chờ. Ông
vĩnh viễn ra đi vài giờ trước lúc tôi bước vào ngôi nhà xưa. Dù vậy tôi vẫn còn
kịp nhìn mặt ba tôi. Nhìn chỉ một lần mà vẫn đủ để khuôn mặt già nua, khắc khổ,
hoàn toàn xa lạ đó theo tôi về tận xứ Mỹ.
Thỉnh
thoảng nhân một liên tưởng về dòng họ ai còn ai mất, khuôn mặt của ông lại hiện
ra cùng với những tiếng thở dài của mẹ. Thế mà tuyệt nhiên, tôi không hề nghĩ
đến việc thờ phượng ông…
Mẹ
nằm trong buồng riêng suốt đêm ngày, mãi đến tối hôm sau mẹ mới tươi tỉnh hẳn.
Tôi rủ mẹ đi ăn đồ biển. Mẹ ăn tự nhiên, ngon lành. Nếm đủ tôm cua nghêu sò ốc
hến. Luôn cả hào tươi. Lâu lắm mới có dịp ăn ngoài, tôi cũng tận lực nuốt. Trên
đường về nhà, mẹ hỏi:
-
Cậu
bảo con có hai thằng con trai. Chúng nó đâu mà mẹ chưa gặp?
-
Tụi
nó đều đã lập gia đình. Mỗi đứa ở mỗi tiểu bang khác nhau, khá xa. Đứa lớn ở
Georgia, có hai con, đứa nhỏ ở Texas, đang chờ con đầu lòng. Con đã sắp xếp để
mẹ đến chơi với chúng nó, mỗi đứa vài ngày, sau khi mẹ gặp cậu mợ.
Mẹ
nhìn tôi, dò hỏi:
-
Con
ở đây một mình sao?
Tôi
gật đầu:
-
Vì
vậy mà con có ý muốn bán nhà này về sống với mấy đứa nhỏ, luân phiên mỗi đứa
một thời gian. Tụi nó đang năn nỉ con về ở chung.
Giọng
mẹ ngập ngừng:
-
Phải
thú nhận rằng mẹ vừa trông thấy căn nhà này là mê ngay. Nếu con bán thì bán cho
mẹ. Mẹ con ta sẽ ở đây, mãi mãi tới ngày mẹ chết…
Tôi
đăm đăm nhìn mẹ. Tôi đã biết từ lâu là mẹ rất giàu, chỉ ngạc nhiên về ý cuối.
Nó đến quá bất ngờ như là một nhánh gai quẹt vào người. Tôi nghe xót đau, khó
chịu. Tôi không chuẩn bị việc này, cũng không muốn nó xảy ra. Đầu óc tôi đông
cứng. Chợt hình ảnh Huy hiện ra, miệng cười cười. Ba tháng nay, từ ngày anh
mất, khi tôi gặp điều gì khó xử là anh lại hiện về. Nụ cười của anh luôn luôn
giúp tôi tìm giải pháp. Tôi thấy bao nhiêu phiền phức nếu cho mẹ ở chung.
Tôi đã
quen với cuộc sống không có mẹ. Chỉ mới hai mươi bốn tiếng đồng hồ “có mẹ” mà tôi đã chịu đựng biết bao
gượng ép. Mẹ nhìn tôi dò hỏi. Tôi nói:
-
Con
mới mất anh Huy. Con cần một thời gian yên tĩnh.
-
Mẹ
cũng cần có thời gian sắp xếp mọi việc ở Việt Nam. Năm tới mẹ trở qua sống hẳn
với con. Con đồng ý chứ?
Tôi
không biết nói gì hơn. Tôi như nghe tiếng Huy văng vẳng:
-
Đừng
làm mẹ buồn!
Tôi
cố nhìn vào bóng đêm loang loáng tìm hình bóng Huy nhưng chỉ thấy ánh đèn đỏ
vừa bật ở ngã tư…
Sau năm
ngày dạo chơi phố xá và ngắm cảnh Nữu Ước, chúng tôi dành hai đêm thử thời vận
ở sòng bạc Atlantic City. Thánh nhân đãi kẻ khù khờ, cả hai mẹ con thắng lớn.
Chúng tôi về đến nhà, tẩy rửa xong lớp bụi đường thì trời tối hẳn. Tôi thấy mệt
mỏi nhưng mẹ tỉnh bơ đề nghị để mẹ nấu ăn ở nhà. Tôi nói sẽ ăn ở nhà nhưng mẹ
khỏi nấu. Mẹ không tỏ gì ngạc nhiên khi tôi gọi thức ăn bằng điện thoại. Bà
ngồi thoải mái trong bộ ghế êm ái, xem truyền hình đưa tin thế vận hội. Tôi sắp
đặt chén đũa, khăn ăn và nước ngọt rồi ngồi xuống cạnh mẹ.
Chợt mẹ
quay sang tôi, giọng ngập ngừng thiếu tự nhiên:
-
Mẹ
phải nói với con chuyện này. Em trai con muốn nhờ mẹ hỏi con giúp nó một việc.
Em
trai tôi? Tôi từ từ hình dung đứa em trai của mình. Tôi đã nhớ ra một hình dáng
hiền hòa thường quanh quẩn gần tôi.
Cũng như
cậu và mẹ, em tôi nhỏ thua tôi năm tuổi. Nhưng nó khác với tất cả chúng tôi là
đã không chào đời ở miền Nam.
Tôi nhìn
mẹ chờ đợi. Giọng mẹ đều đều:
-
Đứa
con gái út của nó học rất giỏi. Năm tới lên đại học. Nó muốn nhờ con giúp cháu
qua học bên này. Nó không muốn cho cháu ở nội trú. Nó xin cho cháu ở với con.
Cơ bản là con không phải tốn kém gì hết. Mẹ sẽ lo đi chợ, nấu ăn cho cả nhà...
Cơn giận
chợt ứ lên ngực làm tôi khó thở. Tôi hít vào một hơi thật sâu. Tôi biết là mở
miệng lúc này tôi sẽ nói ra lời cay độc.
Tôi
nhìn ra ngoài trời đang đổ mưa với những ánh chớp liên hồi. Tôi nhớ tới những
cơn mưa đầy sấm sét trong căn nhà thênh thang thuở lên mười.
Thuở đó
cậu tôi đổi đi đơn vị xa và mợ theo cậu. Người giúp việc thì ngủ gần bếp, xa
căn buồng riêng biệt của tôi. Tôi đã vô cùng sợ hãi và từng ước ao có được một
đứa em.
Bây
giờ tôi đâu còn cần. Tôi nói chầm chậm:
-
Thì
ra mẹ qua đây không phải vì con mà vì tương lai cháu nội của mẹ!
Bà nhìn
tôi tỏ vẻ ngạc nhiên:
-
Con
nói gì lạ vậy. Tất nhiên mẹ qua đây là vì con, bởi vì mẹ muốn bù lại thời gian
ba mẹ bỏ bê con. Mẹ không hề vì cháu nội. Nó chỉ ngỏ lời sau khi biết ý định
của mẹ.
Mẹ
đưa tôi lá thư cầm sẵn:
-
Đây
là thư nó gửi cho vợ chồng con.
Tôi
hững hờ nhận.
Mẹ
tiếp:
-
Thật
ra nó cũng đã hỏi các thủ tục xin ở nội trú. Không có con ở đây, con của nó vẫn
qua đây học. Mẹ thấy điều quan trọng là có người ruột thịt cận kề, coi sóc,
nhắc nhở.
Tôi
cười chua xót, không còn ngăn được lời mai mỉa:
-
Ruột
thịt? Có là ruột dư với thịt thừa! Và mẹ đã từng cắt bỏ không thương tiếc!
Mẹ
nhìn tôi đăm đăm:
-
Con
vẫn còn giận mẹ đến thế sao? Lần con về, mẹ đã hết lời giải thích…
-
Con
vẫn nhớ các lời giải thích đó: Ba mẹ đâu có muốn xa con, chẳng qua chỉ vì muốn
góp phần giành độc lập, thống nhất đất nước.
-
Thì
đất nước đã độc lập thống nhất, sao mẹ và cháu nội không ở Việt Nam mà hưởng.
Mẹ
buông tiếng thở dài. Tôi cũng chợt nhận ra mình vừa buông lời xỉa xói hỗn hào.
Tôi trầm giọng:
-
Con
xin lỗi. Hễ nhớ đến những ngày con bị bỏ rơi là cứ muốn nổi xung thiên…
-
Mẹ
phải làm gì để được con tha thứ, quên đi chuyện cũ. Con nghĩ lại đi. Ba mẹ đâu
có gửi con cho ai xa lạ. Người đó chính là ba mẹ ruột của mẹ. Con lúc nào cũng
nhận được trọn vẹn tình thương và chăm sóc…
Tôi
cố giữ giọng bình thường:
-
Ba
mẹ ruột của mẹ chớ đâu phải ba mẹ ruột của con! Suốt tuổi thơ của con, con bị
bạn bè cười nhạo là đứa trẻ mồ côi, là con không cha không mẹ!
Nước
mắt tôi tự dưng ứa ra, rơi dài xuống. Mẹ đứng lên, bước lại ôm choàng lấy tôi.
Tôi khóc nức nở trên vai mẹ.
Khi
muộn phiền đã dịu xuống, tôi nhìn thẳng vào mắt mẹ:
-
Mẹ
không thấy là mẹ không công bằng sao? Lúc con ở cái tuổi rất cần sự săn sóc của
ba mẹ thì ba mẹ bỏ đi biền biệt. Còn bây giờ, khi mẹ muốn ở gần con thì mẹ đã
bước vào cái tuổi gần đất xa trời, cái tuổi mẹ cần con chớ con không cần mẹ.
Thật lòng mà nói, cho tới giờ phút này, con không một mảy may cảm thấy chút gì
thương yêu mẹ, thì nói chi thương yêu cháu.
Mẹ
ôm mặt, thân hình thả rơi lên ghế. Tôi nghe tiếng nấc của mẹ và nghe lòng chùng
xuống. Tôi nói nhanh như sợ không còn nói được:
-
Nhưng
có điều chắc chắn là con cũng không thể chối bỏ mẹ không phải là mẹ của con.
“Chừng nào mẹ muốn ở với con, mẹ cứ ở. Chừng nào mẹ muốn đi, mẹ cứ đi.” Điều em
con muốn, cháu con muốn, con khó mà nói được lời từ chối!
Mẹ vẫn
ngồi yên, thút thít khóc.
Đúng lúc
tôi muốn ngồi xuống ôm lấy mẹ thì tiếng chuông reo. Tôi thở hắt ra, bước về
phía cửa nhận thức ăn mang tới…
Rời
San Francisco trên chiếc xe chở khách chúng tôi ôn lại những địa điểm đã viếng
thăm qua ba ngày ở vùng vịnh. Mẹ tỏ vẻ hài lòng đã được chính mắt chiêm ngưỡng
chiếc cầu nổi danh Golden Gate. Mẹ cũng yêu thích cái công viên cùng tên với
khung cảnh nên thơ thanh bình mà mẹ gọi là hồ Tịnh Tâm.
Hai ngày ở
San Jose, ấn tượng nhất đối với mẹ là những hình ảnh sinh động, huy hoàng và lạ
mắt của vô số loài sống dưới nước hiển hiện ngay trước mắt trong Monterey Bay
Aquarium. Khi chúng tôi về tới quận Cam. Cậu và các con cháu đón chúng tôi ở
bến xe, chỉ thiếu có mợ.
Khi tôi
thông báo mẹ sẽ sang thăm gia đình cậu, cậu nói sẵn sàng gặp mẹ nhưng từ chối
cho chúng tôi tạm trú.
Nhà cậu mợ
rất rộng, nhiều buồng ngủ. Vợ chồng con cái tôi mỗi khi qua Cali là ở nhà cậu
mợ hà rầm.
Cậu
mợ hẳn phải đau lòng khi lần này để tôi ở khách sạn chỉ vì… có mẹ!. Mợ
không muốn chứa mẹ trong nhà.
Hai đứa em
trai của mợ đều bị tập trung, một bỏ xác trong rừng Yên Bái.
Mỗi
ngày trong suốt một tuần, cậu lái xe đến khách sạn đón chúng tôi đi viếng thăm
hết nơi này đến nơi khác.
Ngày đầu,
cậu dành cho khu Little Saigon. Mẹ thú nhận là rất ngạc nhiên về mức phát triển
quy mô và sự phồn vinh sang giàu của người Việt tỵ nạn.
Những ngày
kế dành cho danh lam thắng cảnh. Có ngày chúng tôi bay khỏi thành phố đỏ đen
Las Vegas về phía Bắc để chiêm ngưỡng Grand Canyon vô cùng kỳ vĩ ngoạn mục.
Cậu thường
dùng khoảng thời gian di chuyển để hỏi mẹ về gia đình và dòng họ ở quê nhà. Cậu
cũng kể về cuộc đời của cậu trong suốt nửa thế kỷ không gặp chị.
Tôi vô
cùng thú vị được nghe hai chị em nhắc lại những kỷ niệm thời họ sống bên nhau.
Thỉnh
thoảng cậu và mẹ “đụng” nhau về
đề tài chính trị thường là do cậu khởi xướng.
Một
lần đang lái xe, cậu bỗng nhái cái giọng bắc của mẹ:
-
Thật
đáng tiếc! Nếu chị cả đừng… vớ phải cái ông trí ngủ nằm vùng thì giờ chị em gặp
lại dung dăng dung dẻ biết bao!
Mẹ nở ngay
nụ cười đáp trả:
-
Thì
cũng lỗi ở em. Phải chi em không làm tay sai cho Mỹ Ngụy.
Cậu
gật gù ra vẻ tán thưởng rồi bắt sang chuyện khác.
Hôm đứng
trước trường đại học danh tiếng Standford, cậu cười nói:
-
Tham
quan trường này chị có nhớ đến những năm chị dạy ở trường Đảng không? Phải công
nhận duy vật biện chứng pháp hay tuyệt. Đảng Cộng sản chủ trương “không có
người bóc lột người”. Thế mà ngày nay bản thân Đảng hóa thành “đảng bóc lột
người”. Y chang… hủy thể của hủy thể!
Mẹ bật
cười giòn tan:
-
Đúng
ra là… phủ định của phủ định!
Một
buổi tối về khách sạn còn sớm, cậu lân la ở lại. Không biết dẫn dắt từ đề tài
gì, hai chị em bắt đầu bàn về Hoàng Sa, Trường Sa và sự hiếp đáp của Trung
cộng. Bỗng cậu đặt câu hỏi:
-
Ông
Bush hứa với ông Dũng là sẽ ủng hộ sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Vậy giả
sử Trung cộng tấn công Việt Nam và Mỹ đem quân qua giúp đánh lại Trung cộng,
thì đối với hai quân đội ngoại nhập đó, theo chị thì phải gọi là gì? Tàu
là quân xăm lăng, Mỹ là bọn xâm lược?
Mẹ
cười duyên dáng:
-
Gọi
thế là…đúng sách vở đấy.
Vào ngày thăm viếng Getty Center,
một công trình chi phí hàng tỷ đô la, vừa đồ sộ về kiến trúc tân kỳ, vừa là
viện bảo tàng nghệ thuật cổ vật hàng thế kỷ, lại vừa quy mô về tổ chức, tất cả
chi phí do nhà tỷ phú Paul Getty đài thọ, cậu tôi bất ngờ hỏi mẹ:
-
Nghe
đâu chị đang là tỷ phú đỏ. Ngày xưa chị chống Mỹ cứu nước, ngày nay nhà tỷ phú
Việt Nam đổi mới đã đóng góp được gì để dựng nước?
Mẹ
cười:
-
Chị
đang cho xây Đại Nam Quốc Tự thứ nhì. Hôm nào khánh thành chị sẽ mời em về dự.
Cậu cười
ra vẻ đắc ý:
-
Xin
hỏi lần này chị đặt ông Hồ ngồi ở đâu?
Tôi nhớ
vừa đọc tin tức gần đây nói về ngôi chùa vĩ đại mới xây xong có đặt ba bức
tượng từ thấp lên cao: Hồ Chí Minh, Khổng Tử, Phật Thích Ca. Tôi lo âu chờ câu
trả lời.
Mẹ nhởn
nhơ:
-
Em
về thì biết.
Đêm chót
trước khi rời Quận Cam trở lại Maryland chúng tôi được cậu mời một bữa tiệc cá
7 món, đặc sản Cali. Khi chúng tôi đến nhà hàng, tôi thật sự ngạc nhiên và vui
mừng khi thấy có cả mợ hiện diện. Mợ đứng lên vui vẻ chào hỏi và mời mẹ ngồi
bên cạnh. Mợ vốn hoạt bát, nên mẹ lúc nào cũng cười tươi. Tôi cảm thấy vô cùng
hạnh phúc. Lúc chờ tính tiền cậu hỏi mẹ bao giờ về Việt Nam. Mẹ bảo còn lâu,
khoảng sáu tháng nữa. Và năm tới có thể là qua ở luôn. Cậu gật gù nhìn mẹ rồi
nhìn tôi.
Tôi tưởng
cậu tán thành quyết định của mẹ nhưng cậu chậm rãi nói:
-
Phải
nói là rất ngạc nhiên khi nghe chị tính qua Mỹ ở luôn. Chị biết không ông Hồ
Chí Minh có làm một câu thơ rất nổi tiếng: đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào!
Ba mươi ba năm qua, Ngụy đã nhào Mỹ đã cút. Thế mà giờ đây có người đánh đuổi
Mỹ lại muốn… cút theo Mỹ!
Tôi bật
cười nhưng kịp hãm khi thấy mặt mẹ sa sầm…
Về
Maryland, theo dự trù chúng tôi nghỉ ngơi ba ngày trước khi bay xuống Georgia
và Texas. Nhưng chỉ mới qua đêm, buổi sáng mẹ buồn rầu đổi ý.
Mẹ
muốn về ngay Việt Nam. Tôi ngỡ ngàng. Nhưng tôi chợt hiểu ra. Câu trêu chọc của
cậu đã chạm tự ái mẹ.
Xa nhau
quá lâu, mẹ không quen tính tình em mình. Cợt đùa, đốp chát vô tội vạ là thói
quen của cậu. Hiểu cậu thì không ai giận cậu.
Không
hiểu cậu, giận cậu thì ráng chịu. Cậu nói đó rồi quên đó. Tuy nhiên tôi vẫn
không muốn thay cậu ngỏ lời xin lỗi mẹ. Tôi cũng không có ý định van xin mẹ
khoan vội về Việt Nam. Tôi biết chắc nếu tôi năn nỉ, mẹ sẽ ở lại.
Gần tháng
qua tôi đã cảm thấy chút gì gần gũi mẹ nhưng xem ra vẫn còn một bức vách vô
hình ngăn cản sự thoải mái, tự nhiên, thân mật. Thậm chí còn có cái gì khác nữa
khiến tôi có lúc bứt rứt, bực mình. Không có mẹ, tôi ngủ nghê, ăn uống thế nào
lúc nào tùy thích. Có mẹ, tôi phải hầu hạ, e dè, trông trước ngó sau. Mẹ ở lại
lần này, lần tới sẽ ở lại mãi mãi. Mà xem ra thời gian để xây đắp tình mẫu tử
chẳng còn bao nhiêu. Luật đời vốn trói buộc tôi vào kiếp nạn mồ côi từ đầu đời.
Có gặp lại cha thì chỉ khi cha mất. Gặp lại mẹ thì mẹ lại bỏ đi.
Thôi thì
hãy coi mươi ngày bên mẹ đã là một hồng ân. Phải mất một tuần tôi mới đổi được
vé máy bay. Trong tuần cuối đó, mẹ chỉ thích đi mua sắm. Mỗi ngày tôi đưa mẹ
vào một trung tâm thương mại khác nhau. Ăn thì mỗi bữa một nhà hàng khác xứ. Mẹ
đã thưởng thức các món ăn Mỹ, Nhật, Thái, Đại Hàn, Mã Lai, Nam Dương.
Đêm cuối
cùng, tôi hỏi mẹ có muốn ăn phở lần chót ở Mỹ không, mẹ cười bảo muốn ăn canh
chua cá kho tộ. Tôi thấy chút ấm lòng…
Hôm đưa mẹ
ra phi trường, chúng tôi im lặng suốt đoạn đường. Gửi xong hành lý, tôi kéo
chiếc va ly, tay kia nắm bàn tay mẹ bước chầm chậm về trạm kiểm soát an ninh cá
nhân. Khi gần đến dòng người ngoằn ngoèo chờ qua trạm, mẹ dừng lại. Tôi nhìn mẹ
dò hỏi. Ánh mắt mẹ ngập tràn âu yếm mà giọng cất lên trầm buồn:
-
Chắc
mẹ sẽ không qua đây thăm con nữa.
Tôi
nghe xao xuyến nhưng vẫn lặng thinh.
Lời
mẹ êm như tiếng thở dài:
-
Và
khi mẹ chết, con cũng không cần phải về…
Tôi
đứng chết lặng. Tôi có cảm tưởng như tôi đã cư xử quá tệ hại với chính mẹ mình.
Ý nghĩ trở thành đứa con bất hiếu khiến tôi buột miệng:
-
Mẹ!
Con sẽ về. Thế nào con cũng về. Cậu đã dạy con nghĩa tử là nghĩa tận.
Bà vòng
tay ôm lấy tôi thật chặt, giọng êm đềm:
-
Còn
đây là lời mẹ dạy, lần đầu mà cũng là lời cuối. Con hãy luôn luôn ghi nhớ: “Chú như cha, cậu như mẹ”. Con gắng giữ
sức khỏe. Thôi mẹ đi.
Mẹ
nắm chiếc cần va ly từ tay tôi. Tôi vụng về ôm lấy mẹ. Mẹ áp má vào má tôi. Tôi
nghe chừng thân mình bay bổng. Khi tôi mở vòng tay, mẹ quay mặt bước đi. Tôi
thấy mình quá bất nhẫn, khẽ gọi:
-
Mẹ!
Bà
quay lui, chân vẫn bước, đôi mắt hiền từ. Tôi lúng túng vẫy tay, cố nở nụ cười:
-
Chào
mẹ!
________
*Tập
kết là chữ dùng để gọi những người miền Nam bỏ vào bưng, vào các mật khu hay ra
ngoài Bắc để tham gia sinh hoạt trong thời gian chiến tranh ý thức hệ quốc cộng
trước tháng 4 năm 1975.
SUY TƯ CỦA NGƯỜI ĐỌC
Cám
ơn cha Ng. Thanh đã gửi một bài viết rất có giá trị về mặt tâm lý và giáo dục.
Cha hỏi liệu chúng ta phải có những ý nghĩ như thế nào cho những trường hợp như
vậy? Ý nghĩ của mỗi người khác nhau. Trước một biến cố nào đó xẩy ra cho bất kỳ
ai, trong môi trường và hoàn cảnh nào cũng đều nhận được nhiều ý kiến khác nhau
từ nhiều người với những cái nhìn và suy nghĩ khác nhau từ nhiều phía. Nhưng
sau đây người viết xin được đóng góp phần ý kiến của riêng mình. Tuy nhiên vẫn
xin nhấn mạnh tầm nhìn này trong khía cạnh tâm lý và giáo dục.
Bỏ ngoài
tất cả những tình tiết tả về cuộc viếng thăm nước Mỹ, sự đón tiếp của người
thân, những nơi ghé tham quan, những chính kiến, cảm tình, mối dây liên hệ của
những người trong câu truyện, thì điểm chính được nhìn thấy ở đây là: 1)Tình
mẫu tử. 2) Ảnh hưởng tâm lý. 3) Ảnh hưởng văn hóa.
1)Tình mẫu
tử: Đây là mối tình thiêng liêng cao cả mà Thượng Đế đã “đặt” “đã khắc ghi” trong lòng mọi người, đặc biệt là những người
làm mẹ. Mối tình thiêng liêng cao cả này là mối tình vĩnh cửu, không cho phép
bất cứ một ai loại bỏ nó, coi thường nó, và phủ nhận nó. Nhờ nó mà những người
mẹ dù vất vả ngược xuôi, chịu trăm cay ngàn đắng, khốn khó trăm bề vẫn không bỏ
rơi con. Nó chính là hào quang, là phần thưởng vô cùng cao quí dành cho những
bà mẹ. Và cũng nhờ nó mà những đứa con do bà sinh ra đã được bao bọc, nuôi
dưỡng, và che chở. Mức độ có khác nhau, hoàn cảnh có khác nhau, và trường hợp
có khác nhau, nhưng mẫu số chung vẫn là người con không thể thiếu mẹ, không thể
lớn lên mà không cần có mẹ. Và người mẹ dù là bất cứ ai, trong bất cứ môi
trường xã hội, tâm lý, văn hóa, giáo dục, chính trị vẫn có quyền và hạnh phúc
tự hào về những đứa con của mình đã sinh ra.
Trong câu
truyện trên người đọc sẽ dễ dàng nhận ra mối tính mẫu tử ấy xuất hiện hầu như
khắp nơi, dù qua những lời lẽ chua chát, những tiếng thở dài não nuột, và những
hồi tưởng cay đắng. Nhưng nếu để ý kỹ người đọc sẽ khám phá ra rằng cuối cùng
tình mẫu tử đã thắng. Chúng ta hãy đọc lại câu chuyện để thấy sự chiến thắng
của mối tình này:
- Chắc mẹ sẽ không qua đây thăm con nữa! Và khi
mẹ chết, con cũng không cần phải về…
- Mẹ! Con sẽ về. Thế nào con cũng về. Cậu đã dạy
con nghĩa tử là nghĩa tận.
- Còn đây là lời mẹ dạy, lần đầu mà cũng là lần
cuối. Con hãy luôn luôn ghi nhớ: “Chú như
cha, cậu như mẹ”. Con gắng giữ sức khỏe. Thôi mẹ đi.
Và trong
những dòng cuối, tác giả kể lại:
Mẹ nắm
chiếc cần va ly từ tay tôi. Tôi vụng về ôm lấy mẹ. Mẹ áp má vào má tôi. Tôi
nghe chừng thân mình bay bổng. Khi tôi mở vòng tay, mẹ quay mặt bước tới. Tôi
thấy mình quá bất nhẫn, khẽ gọi:
-
Mẹ.
Bà
quay lui chân vẫn bước đôi mắt hiền từ. Tôi lúng túng vẫy tay, cố nở nụ cười:
-
Chào
mẹ!
2)
Ảnh hưởng tâm lý: Nếu có sự ngập ngừng và bịn rịn trong đau đớn mang ý nghĩa
hờn dỗi và chưa thể tha thứ được giữa tình cảm hai mẹ con là vì vết thương tâm
lý mà người mẹ đã đâm vào trái tim người con quá sâu, quá rộng, và quá phũ
phàng. Cộng thêm với những yếu tố bên ngoài như ảnh hưởng của giáo dục, của văn
hóa đã làm cho vết thương ấy tưởng như đã lành, đã sẵn sàng cho những trao đổi
bình thường giữa người mẹ và người con. Nhưng thực tế, nó chỉ tạm lành bề ngoài
theo thời gian, nó vẫn còn rỉ máu bên trong và khi có hoàn cảnh vết thương ấy
lại mở ra và tạo nên một nỗi đau mà bình thường khiến con người rất khó tha thứ
và vượt qua.
Người mẹ
này đã phạm phải lỗi lầm ấy, bà đã đâm vào trái tim con bà khi bà bỏ rơi con vì
một lý tưởng, vì một hoài bão riêng tư. Nhưng bà quên mất rằng tuổi thơ con bà
rất cần bà. Nó không thể sống khỏe, sống hạnh phúc nếu thiếu tình thương của
người mẹ. Một em bé mà bị cả bố lẫn mẹ bỏ rơi, bị bạn bè chế nhạo, và sống côi
cút trong khi bố mẹ vẫn còn thì tâm lý này rất đau đớn, và hầu như là vết
thương suốt đời. Câu trả lời của người con trong câu chuyện đã diễn tả được
những nỗi đau tiềm ẩn đó:
-
Con
nói gì lạ vậy. Tất nhiên mẹ qua đây là vì con, bởi vì mẹ muốn bù lại thời gian
ba mẹ bỏ bê con… Mẹ phải làm gì để được con tha thứ, quên đi chuyện cũ. Con
nghĩ lại đi. Ba mẹ đâu có gửi con cho ai xa lạ. Người đó chính là ba mẹ ruột
của mẹ. Con lúc nào cũng nhận được trọn vẹn tình thương và chăm sóc. - Ba mẹ ruột của mẹ chớ đâu phải ba mẹ ruột của con! Suốt tuổi thơ của con, con bị bạn bè cười nhạo là đứa trẻ mồ côi, là con không có cha mẹ!...
Đây cũng
là câu trả lời cho những phụ huynh mà bất cứ vì lý do gì đã bỏ rơi tuổi thơ con
của mình. Tiền hay tình? Sắc đẹp hay quyền lực? Ngay cả những hành động đạo đức
mang hình thức cuồng tín như suốt ngày chỉ luẩn quẩn ở thánh đường, thánh thất,
chùa chiền mà quên con cái, quên gia đình. Những phụ huynh này, những cha mẹ
này nên có dịp ngồi lại nghe tâm tư con cái mình để hiểu được những trống vắng,
nhưng đau xót của tuổi thơ khi phải xa tình thương của cha mẹ. Họ cũng nên
thỉnh thoảng vào thăm các trại tù vị thành niên, hoặc những nhà tù dành cho các
phạm nhân để tìm hiểu xem những trẻ em kia, những tù nhân kia phản ảnh như thế
nào về tuổi thơ của mình đã bị quên lãng?!!
Theo tâm
lý giáo dục, một trong những vết cắt hằn sâu và khó lành nhất của tuổi thơ là
sự bạc đãi của cha mẹ trong đó có hành động bỏ rơi con cái. Ngoài ra việc thiếu
ý thức, thiếu khả năng và trách nhiệm giáo dục của cha mẹ cũng góp phần ghi lại
những dấu ấn không mấy đẹp đẽ của tuổi thơ. Thí dụ những trận đòn chí tử, những
cái tát tai nẩy lửa, những lời chửi bới, xỉ vả thiếu tôn trọng phẩm giá của con
người dù đó là con mình, và những gương xấu mà cha mẹ làm trước mặt con cái.
Những thứ này, nhiều cha mẹ, phụ huynh coi là không quan trọng, nhưng với ký ức
tuổi thơ thì mãi mãi chúng là những giấc mơ kinh hoàng. Ảnh hưởng của nó không
hề nhỏ đối với nhân cách sống và lối hành xử sau này khi chúng lớn lên. Chẳng
thế mà chúng ta thường thấy những đứa trẻ nạn nhân của cha mẹ sau này lại cũng
làm cho con cái chúng trở thành nạn nhân như chính họ đã là nạn nhân của cha mẹ
họ. Hầu hết những lỗi lầm, sa ngã, những hành vi tội phạm của một đứa trẻ, hay
của một người đều có xuất xứ từ những tháng năm thiếu may mắn của tuổi
thơ.
Như đã
trình bày ở trên, người đọc không ngạc nhiên khi vết thương tuổi thơ lại bị mở
ra trong một bối cảnh thiếu chuẩn bị tâm lý từ phía người mẹ, người đã gây ra
vết thương ấy. Và cũng mừng là người con, cuối cùng cũng để cho vết thương kia
khép lại để nhận ra người đã sinh ra mình và gọi bà bằng tiếng “mẹ”, mặc dù trong lòng vẫn đau và vì
thế tiếng gọi chưa được ngọt ngào.
3) Ảnh
hưởng văn hóa: Nhìn kỹ hơn, người đọc có thể thấy thêm một chi tiết nữa tuy
không trực tiếp nhưng gián tiếp làm cho vết thương tuổi thơ của nhân vật trở
nên khó lành và khó chữa, đó là ảnh hưởng của văn hóa: Hai nền văn hóa khác
nhau, hai quan điểm và hai triết lý sống khác nhau. Mặc dù ở trường hợp hai mẹ
con trên nó không gây ra những bất ngờ đổ vỡ, nhưng nó cũng là những khác biệt
tạo nên hai lối nhìn giữa người mẹ và người con.
Người
mẹ vẫn quan niệm và sống với lối sống cũ, “có
điều chắc chắn là con cũng không thể chối bỏ mẹ không phải là mẹ của con. Chừng
nào mẹ muốn ở với con, mẹ cứ ở. Chừng nào mẹ muốn đi, mẹ cứ đi”. Bà đâu ngờ
rằng đến lúc đó con bà vẫn không chấp nhận và sẵn sàng mở cửa trái tim cho bà.
Không chỉ có sự khác biệt giữa suy nghĩ của người trẻ đối với người già, mà sự
khác biệt ấy đã xẩy ra giữa người già với người già. Sau đây là mẩu đối thoại
giữa hai mẹ con và hai chị em trong truyện:
- Ba mẹ đâu có muốn xa con, chẳng qua chỉ vì
muốn góp phần giành độc lập, thống nhất đất nước.
- Thì đất nước đã độc lập thống nhất, sao mẹ và
cháu nội không ở Việt Nam mà hưởng?!
Và đối với
nhiều người, những khác biệt về giáo dục về ý thức hệ vẫn làm chia rẽ suy tư và
cái nhìn của nhau. Câu chuyện trao đổi giữa người chị trong truyện và em của bà
đã cho thấy sự khác biệt này cho đến hôm nay vẫn còn là một khác biệt rất sâu
đậm:
- Phải nói là rất ngạc nhiên khi nghe chị tính
qua Mỹ ở luôn. Chị biết không ông Hồ Chí Minh có làm một câu thơ rất nổi tiếng:
đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào! Ba mươi ba năm qua, Ngụy đã nhào Mỹ đã
cút. Thế mà giờ đây có người đánh đuổi Mỹ lại muốn… cút theo Mỹ!
Phản ứng
của hai nền văn hóa, hai triết lý sống đã có hiệu lực tức thời khi nó được đánh
thức: “Về Maryland, theo dự trù chúng tôi
nghỉ ngơi ba ngày trước khi bay xuống Georgia và Texas. Nhưng chỉ mới qua đêm,
buổi sáng mẹ buồn rầu đổi ý. Mẹ muốn về ngay Việt Nam.”
KẾT LUẬN: Hành động xem ra như không muốn tha
thứ của người con thực ra chỉ là chưa sẵn sàng tha thứ. Cô cần có thời gian để
viết thương tuổi thơ được lành. Điều này nhắc nhở các phụ hunh, cha mẹ là cần
phải lưu tâm đến tuổi thơ mà dành nhiều thời giờ cho con cái. Và sau cùng là
ảnh hưởng giáo dục và sự khác biệt của hai nền văn hóa. Nói ra hay không nói,
nó vẫn là những mầm chia rẽ âm ỷ trong cuộc sống được biểu lộ qua những khác
biệt văn hóa. Là những phụ huynh, cha mẹ người Việt Nam, chúng ta cần ý thức và
giáo dục con em mình trong khi hội nhập vào những xã hội Âu Mỹ nguyên tắc của
tâm lý xã hội, đó là “Hội nhập, chứ không
để mình đồng hóa”. Đồng hóa dưới bất cứ hình thức nào cũng là một cách mất
gốc.
Khuyết Danh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét