ĐỨC VUA ĐA KHÔNG
(Chúa Nhật Lễ
Lá, năm C)
(Tue,
15/03/2016 - Trầm
Thiên Thu)
Hoàng
đế (Hán tự: 皇帝
– Anh ngữ: Emperor – La ngữ: Imperator) là tước vị cao của Vua, thường là
người cai trị của một đế chế hoặc loại khác của vương quốc, đế quốc. Nói chung,
Hoàng đế là người được công nhận có danh dự và xếp hạng cao hơn so với quốc
vương.
Vua thì có
ngai, gọi là bệ rồng. Quần thần không được “đụng
chạm” tới Vua, có tâu cũng chỉ được tâu cái bệ có cái ngai của Vua ngồi: “Muôn
tâu bệ hạ”. Ngước nhìn long nhan nhà vua là phạm tội “khi quân”, xử tử ngay!
Vua nào
cũng có tiền hô hậu ủng, có tất cả mọi tứ, kể cả quyền sinh tử: “Quân xử
thần tử, thần bất tử bất trung”. Chỉ có Đức Giêsu Kitô là vị Vua cao cả
nhất, Vua của các vua, là Thiên Vương, là Chúa của các chúa, thế mà lại có một
số KHÔNG to lớn và tròn trịa: KHÔNG đăng quang, KHÔNG ngai vàng, KHÔNG bệ rồng,
KHÔNG long bào, KHÔNG bảo kiếm,… chỉ có đám dân đen tôn Ngài làm Vua, cái mà
chúng ta gọi là “ngai vua” đối với
Ngài là chính “ngai khổ” Thập Giá. Và
Ngài được dân chúng reo hò chúc tụng là “Con
Vua Đa-vít, Đấng nhân danh Chúa mà đến” chỉ trong chốc lát mà thôi. Rồi
người ta mau chóng lật mặt như trở bàn tay!
Ngay trong
khi dân chúng tôn vinh Ngài, cả bốn Phúc Âm đều nói rõ rằng lòng kính trọng
Chúa Giêsu khi Ngài vào Thành Giêrusalem được thể hiện nhưng không phải tất cả
đều là cư dân Giêrusalem. Thánh Mát-thêu cho biết: “Khi Đức Giêsu vào
Giêrusalem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: ‘Ông này là ai vậy?’. Dân
chúng trả lời: ‘Ngôn sứ Giêsu, người Nadarét, xứ Galilê đấy” (Mt
21:10-11).
Chúa Nhật
Lễ Lá là lúc giờ G đã điểm, khởi đầu hành trình khổ nạn của Đức Kitô từ lúc vào
Thành Thánh Giêrusalem. Dân chúng thấy Chúa Giêsu làm nhiều thứ quá tuyệt vời,
quá kỳ diệu, vượt ngoài sức tưởng tượng của loài người, thế nên họ muốn tôn
Ngài làm vua, chính họ cũng đã nhận biết Ngài là ai, họ lũ lượt theo nhau và
reo hò vang dội: “Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh
Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời” (Mt 21:9).
Cây càng
cao, gió càng lay. Càng làm lớn càng khổ. Khổ từ khi đăng quang và vinh quy bái
tổ. Vua chúa, hoàng đế hoặc quốc vương nào cũng có lễ đăng quang. Ngay cả giáo
hoàng cũng có lễ đăng quang.
Người ta
thường nói: “Khổ ải trần gian” hoặc “Đời là bể khổ”. Vâng, “biển khổ” chứ không phải “sông khổ” hoặc “ao khổ”. Điều đó cho thấy kiếp người không ngừng nối tiếp đau khổ,
là một hành trình đau khổ triền miên. Có lẽ do vậy mà khi sinh ra không ai
cười, ai cũng “cất tiếng khóc chào đời”.
Biết chấp nhận thì có thể “hóa giải”
đau khổ thành niềm vui, nếu không thì càng chồng chất thêm đau khổ mà thôi.
Hơn 2000
năm trước, Thích Ca Mâu Ni là người sống trong cung vàng điện ngọc, nhưng ông
đã “giác ngộ” sau khi nhìn thấy những
cảnh khổ của kiếp người, thế nên ông quyết ngồi thiền dưới gốc bồ đề để tu thân
và “tâm niệm” Tứ Diệu Đế: Sinh là
khổ, Bệnh là khổ, Lão là khổ, và Khổ là khổ. Ông đã siêu thoát và được người ta
tôn vinh là Đức Phật. Muốn thoát đau khổ không gì hơn là đi xuyên qua đau
khổ. Chúa Giêsu cưỡi lừa vào thành Giêrusalem, được người ta tung hô khi
tay họ cầm lá thiên tuế chào đón. Nhưng đó cũng là lúc Ngài khởi đầu “hành trình đau khổ”.
NGƯỜI
TÔI TỚ ĐAU KHỔ
Ngôn sứ
Isaia nhiều lần tiên báo về “người tôi tớ
đau khổ”. Ông cảm thấy Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho ông nói năng như một
người môn đệ, để ông biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Ông xác nhận: “Sáng
sáng Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ” (Is
50:4). Ông cho biết thêm: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi,
tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50:5).
Ngôn sứ
Isaia “không cưỡng lại” và “không thoái lui” dù ông phải “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người
ta giật râu” và “không che mặt khi bị
mắng nhiếc, phỉ nhổ” (Is 50:6). Ông tin mình “có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ”, vì thế, ông “không hổ thẹn” mà cứ “trơ mặt ra như đá”. Thế nên ông biết
mình sẽ “không phải thẹn thùng” (Is
50:7). Ông là hình ảnh của Đức Kitô, con người của đau khổ, khởi đầu “hành trình đau khổ” từ Giêrusalem, ngay
khi được người ta cầm những cành thiên tuế tung hô là vua.
Tác giả
Thánh vịnh mô tả về tình trạng chịu nhục nhã ê chề:
Thấy con ai cũng chê cười
Lắc đầu, bĩu mỏ, buông lời mỉa mai:
“Nó trông cậy Đức Chúa Trời
Cứ để mặc Người giải cứu nó đi!” (Tv 22:8-9)
Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ
không chỉ bị khiêu khích, bị đau khổ về tinh thần mà còn bị đau khổ về thể lý:
Quanh con bầy chó bao chặt chẽ
Bọn ác nhân vây bủa trong ngoài
Chúng đâm con thủng chân tay
Xương con đếm được vắn dài, chúng xem (Tv 22:17-18)
Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ
bị đau khổ đến tận cùng, nhưng vẫn luôn trông cậy vào Thiên Chúa:
Áo mặc ngoài
chúng đem chia chác
Còn áo trong cũng bắt thăm luôn
Chúa là sức mạnh con nương
Cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa! (Tv 22:19-20)
Đồng thời
vẫn muốn tôn vinh Thiên Chúa trong chính những đau khổ của mình:
Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa
Cho anh em tất cả được hay
Và trong đại hội dân Ngài
Con xin dâng tiến một bài tán dương (Tv 22:23)
Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ
luôn trung tín với Thiên Chúa, tự động viên mình và khuyến khích người khác: “Hỡi
những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Gia-cóp,
nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Ítraen tất cả, nào một dạ khiếp oai!” (Tv
22:24).
NGƯỜI CHẤP NHẬN ĐAU KHỔ
Thánh
Phaolô vừa phân tích vừa xác định: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà
không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã
hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống
như người trần thế” (Pl 2:6). Đạo cũng như đời, người quyền cao chức trọng
có mấy ai dám “vi hành” để hiểu rõ
cảnh khổ của người dân?
Trong tác
phẩm “Authority: Its Use and Abuse” (*) có
kể một số “điểm son” của Đức cố GM
Irumpen, GP Palakkad (Ấn Độ), một giám-mục-đa-không, đáng để chúng ta noi
gương:
Mỗi Chúa Nhật, ngài đến một giáo xứ nào đó mà không báo
trước, ngồi tòa giải tội khoảng 15-20 phút, dâng lễ, giảng lễ, dạy giáo lý,
và chuyện trò với giáo dân và linh mục quản xứ; ngài không bao giờ cho
phép người ta tổ chức tiếp tân chào mừng ngài tại các giáo xứ. Và tại tòa giám
mục hay ở bất cứ nơi đâu mà ngài ghé thăm, ngài không nhận bất cứ sự biệt
đãi nào dành cho mình; ngài cho rằng sự hào nhoáng bên ngoài (kiểu như đoàn
xe đưa rước trong những dịp đặc biệt) không phải là chứng nhân Tin Mừng
mà là chứng nhân của văn hóa thế tục; hằng ngày ngài dành thời gian từ 9 giờ
đến 12 giờ để tiếp bất cứ ai đến gặp, không cần hẹn trước; ngài không
bao giờ nghỉ trưa; ngài chỉ dự những lễ kỷ niệm chịu chức hay khấn dòng nếu
những lễ ấy tổ chức ở nhà thờ chính tòa; ngài không tổ chức mừng ngày kỷ
niệm thụ phong giám mục của mình. Năm nào ngài cũng mừng lễ bổn mạng, dịp các
linh mục tĩnh tâm tháng vào ngày 19-3 (Lễ Đức Thánh Giuse Phu Quân Đức Maria).
Linh mục đoàn cùng nâng cốc chúc mừng và nhâm nhi chút bánh ngọt; ngài không
đưa lên bảng thông tin giáo phận các tin về hoạt động hay đi lại của ngài trong
giáo phận, mà chỉ thông tin cho mọi người biết trước về những trường hợp ngài
phải ra ngoài giáo phận quá một ngày, chẳng hạn khi ngài sắp đi dự họp Hội Đồng
Giám Mục,...; ngài không bao giờ đi nước ngoài, trừ phi đó là bổn phận
bắt buộc như về Rôma dịp Ad limina. Ngài không bao giờ đi nước ngoài để
quyên tiền. Ngài nói rằng các nhu cầu căn bản của giáo phận cần phải được gánh
vác bởi chính giáo dân trong giáo phận; không bao giờ có chuyện “phạt
treo”, chẳng hạn không cấp giấy chứng chỉ hôn phối vì người ta chưa đóng góp
quĩ; ngài luôn ăn mặc giản dị, ăn chay trường, và chẳng ai thấy hình ảnh
của ngài trên báo chí; ngài hưu trí tại nhà hưu của các linh mục cao niên. Cuộc
đời ngài thật đơn giản, tất cả đồ đạc xếp gọn trong một chuyến xe nhỏ; giáo phận
tặng ngài một ô tô dịp ngài về hưu, nhưng ngài không nhận, chỉ muốn được
trợ cấp hưu bổng đúng theo mức hưu dưỡng như các linh mục khác trong giáo phận;
ngài không muốn xin viện trợ từ bên ngoài để xây các nhà thờ to lớn. Nếu
ai dâng hiến đất, ngài sẽ xây một nhà thờ vừa phải với sự hỗ trợ của chính các
giáo dân địa phương; văn phòng của ngài là một gian phòng nhỏ trong một ngôi
nhà cũ kỹ, không có bất cứ món trang trí nào; ngài là một chứng nhân Tin Mừng,
sống điều ngài rao giảng, cách sống của ngài cho thấy rõ quyền bính là để
phục vụ.
Tại Việt
Nam có gương sáng của Đức cố GM Cassaigne (người Pháp, quen gọi cha Sanh,
nguyên giám mục GP Saigon), vị tông đồ của người cùi. Khi còn là giám mục
Saigon, ngài cũng đã từng rong ruổi khắp khu dân cư nghèo để thấy rõ thực
tế, cửa tòa giám mục cũng luôn rộng mở đón tiếp mọi người.
Những
chứng nhân như vậy thật đáng khâm phục vì đúng là những mục tử của Chúa, dám
quên mình vì đoàn chiên, là những chủ chăn đích thực và sống động, chứ không
nói suông qua các văn bản hoặc bài giảng.
Chúa Giêsu
không chỉ là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ mà còn là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ-Khiêm-Nhường: “Ngài
lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập
tự” (Pl 2:7). Cái chết của Ngài khác thường là “chết trên thập giá”, loại khổ hình nhục nhã nhất thời đó. Chính vì
Ngài chịu đau khổ đến tột cùng mà “Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban
danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2:9), danh hiệu ấy cao cả
và quyền năng đến nỗi “khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất
và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ” (Pl 2:10). Để tôn vinh Thiên
Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa”
(Pl 2:11).
Trong cuộc
sống, không ai muốn đau khổ, nghĩa là ai cũng muốn sống sung sướng, muốn tận
hưởng niềm hạnh phúc – tận hưởng bằng mọi cách và càng nhiều càng tốt. Vì thế
mà con người miệt mài đêm ngày đi tìm hạnh phúc. Đau khổ luôn là
điều bí ẩn đối với cuộc sống. Thậm chí những người chấp nhận đau khổ có thể bị
coi là “ngu xuẩn”, là “dại dột”, là “điên khùng”. Tuy nhiên, với người tin vào Đức Kitô, đau khổ là một
mầu nhiệm.
Bất kỳ ở
quốc gia nào, một bị cáo đứng trước vành móng ngựa cũng có luật sư bào chữa.
Trong Giáo hội Công giáo, trước khi phong thánh cho ai thì cũng có 2 “phe”, một phe đưa ra các điều tốt và
một phe đưa ra các điều xấu – được gọi là “luật
sư của quỷ”, phe luật sư này sẽ đưa ra mọi thứ “bất lợi” cho ứng viên đến khi “chịu
thua” mới thôi. Chẳng hạn trường hợp của Thánh GH Gioan XXIII,
luật-sư-của-quỷ đã hết cách nên đành “tố
cáo” Gioan XXIII hồi nhỏ hay chơi diều.
Từ cổ chí
kim, chỉ có một tử tội đặc biệt không có luật sư bào chữa, cũng chẳng có ai
bênh vực một lời nào, đó là Đức Giêsu Kitô. Người ta vừa tôn làm vua xong đã
vội lật mặt và đòi đóng đinh vào Thập giá, đến cả những người thân cận nhất
cũng sợ liên lụy mà bỏ rơi Đại Sư của mình, người mà mình leo lẻo tán dương lên
tận mây xanh!
ĐIỂM
BÁO GIỜ G
Bài Thương
Khó hôm nay là một bộ phim dài, một tấn bi kịch đẫm lệ sầu, một cuộc chia ly
đầy nước mắt.
Giờ G đã
điểm, Đức Giêsu vào bàn cùng với các Tông Đồ. Người nói: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi
chịu khổ hình” (Lc 22:15).
Ngài đưa ra lý do: “Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến
khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa” (Lc 22:16).
Sau đó,
Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể, Ngài dùng chính Mình Máu Ngài để nuôi sống
chúng ta. Ngài tiên báo mọi chuyện sắp xảy ra như những lời trăng trối, và để
cảnh báo mọi người. Rồi Ngài phân tích về cách cai trị: “Vua các dân thì
dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng
anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải
nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục
vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người
ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ. Còn
anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách
gian nan. Vì thế, Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho
Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và
ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en” (Lc 22:25-30).
Đặc biệt
là Ngài cảnh báo về sự dữ đối với Phêrô: “Simon, Simon ơi, kìa Satan đã xin
được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh
khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên
vững mạnh” (Lc 22:31-32). Chúa Giêsu thân thiện gọi ông là Simon,
gọi tên thật chứ không gọi “nickname”
Phêrô, triều đại giáo hoàng đệ nhất.
Ông Phêrô
thưa với Người: “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa,
con cũng sẵn sàng” (Lc 22:33). Đức Giêsu nói ngay: “Này anh
Phêrô, Thầy bảo cho anh biết, hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối
là không biết Thầy” (Lc 22:34). Tính nóng như lửa, thế mà Phêrô cũng
chỉ biết gãi đầu và im lặng, chả nói được gì. Nói ngon lắm, nhưng rồi không phải
thế. NÓI và LÀM là hai việc khác nhau, có một khoảng cách rất gần mà cũng rất
xa!
Biết mình
không còn bao lâu nữa sẽ xa rời người thân, nên Ngài rất quan tâm: “Anh em có thiếu thốn gì không?” (Lc
22:35). Các ông trả lời “không”.
Các ông tưởng sắp có chiến tranh và đổ máu nên cùng nói: “Lạy Chúa, đã có
hai thanh gươm đây” (Lc 22:38a). Nhưng Chúa Giêsu bảo họ: “Đủ rồi!” (Lc
22:38b).
Sau đó
Ngài đi ra núi Ô-liu như đã quen. Các môn đệ lẽo đẽo theo Ngài. Đến nơi, Ngài
bảo: “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22:40). Cầu
nguyện là điều cần thiết lắm, thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hành động.
Ngài đi xa các ông một quãng, rồi quỳ gối cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm
theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Lc
22:42). Lúc này Ngài lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết
cầu xin. Chúa Giêsu vừa lo vừa sợ, vừa buồn vừa cô đơn, đến nỗi mồ hôi Ngài
như những giọt máu rơi xuống đất (Lc 22:44).
Cầu nguyện
xong, Ngài quay lại chỗ các môn đệ, nhưng các ông đang ngủ ngon lành. Ngài nói:
“Sao anh em lại ngủ? Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22:46).
Lần thứ hai Chúa nhắc các ông cầu nguyện, Ngài xác định việc cầu nguyện vô cùng
cần thiết, mọi nơi và mọi lúc.
Ngay lúc
đó, Giuđa lại gần Đức Giêsu để hôn Ngài, và để chỉ điểm cho bọn thủ ác đến vây
bắt Ngài. Chúa Giêsu ôn tồn: “Giuđa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người
sao?” (Lc 22:48). Lời nói nhẹ mà đau thấm thía. Ngày nay, chúng ta
cũng vẫn dùng “dấu tốt” để bán Chúa,
để mưu hại tha nhân, để làm những điều phi nhân nghĩa.
Người ta
muốn dùng gươm giáo để chiến đấu, chính Phêrô đã nhanh như chớp, tuốt gươm chém
ngay, nhưng có lẽ ông run tay nên chỉ đứt tai một tên lính chứ nếu ngon lành
thì ông cho nó đầu lìa khỏi cổ rồi. Phêrô còn nhát tay lắm! Thấy vậy, Đức Giêsu
lên tiếng: “Thôi, ngừng lại” (Lc 22:51). Và Ngài gắn lại liền tai
cho khổ chủ. Phép lạ nhãn tiền thế mà bọn thủ ác vẫn lì lợm, vẫn cứng lòng, vẫn
cố chấp!
Chúa Giêsu
bị chúng dẫn đi, khi đi ngang qua Phêrô, Ngài nhìn ông với ánh mắt sâu thẳm,
vừa buồn trách vừa xót thương, ông giật mình vì ông vừa chối Thầy đúng như lời
Thầy nói trước. Tiếng gà gáy xoáy sâu vào lòng ông khiến ông vừa xấu hổ vừa ăn
năn, ông chạy ra ngoài và bật khóc, khóc như con trẻ, khóc như chưa bao giờ
khóc, tiếng khóc rất thảm thiết (Lc 22:62).
Bọn thủ ác
bịt mắt Ngài lại, thốt ra nhiều lời khác xúc phạm đến Ngài, và hành hạ Ngài đủ
kiểu, thâu đêm suốt sáng, không chút tiếc xót. Khi trời sáng, mọi người đều
nói: “Vậy ông là Con Thiên Chúa sao?” (Lc 22:70a). Ngài thản
nhiên: “Đúng như các ông nói, chính tôi đây!” (Lc 22:70b). Họ liền vào
hùa: “Chúng ta cần gì lời chứng nữa? Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói!”
(Lc 22:71).
Sau đó, họ
bắt đầu tố cáo Chúa Giêsu đủ thứ, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn, cái gì cũng hóa
thành trọng tội, dù là việc làm tốt. Tâm địa kẻ ác là vậy!
Philatô
nhát gan vì sợ mất chức quyền, không dám hành động theo lương tâm, rửa tay để
chứng tỏ mình chí công vô tư. Ông ta muốn cho đánh đòn Chúa Giêsu rồi thả ra,
nhưng dân chúng không chịu, họ đồng thanh la ó: “Giết nó đi, thả Baraba cho
chúng tôi!” (Lc 23:18). Baraba đã bị tống ngục vì một vụ bạo động đã xảy ra
trong thành, và vì tội giết người. Họ coi Chúa Giêsu không bằng một tên tử tội
tàn ác khét tiếng. Thấy dân chúng nhất quyết xin tha Baraba mà giết Chúa Giêsu,
Philatô đành chiều theo ý họ. Thật đê tiện!
Con đường
từ dinh Philatô tới Đồi Can-vê quanh co, đồi dốc và lởm chởm. Chúa Giêsu phải
tự vác Thập giá mà đi, biết bao vất vả, sức yếu dần vì bị đòn roi với đủ nhục
hình và còn bị đói khát, Ngài đã ngã xuống 3 lần vì sức nặng của Thập giá.
Chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi!
Đến Đồi
Sọ, họ đóng đinh Ngài vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên
phải, một tên bên trái. Chịu đủ loại nhục hình, từ lời nhục mạ tới hành động
đóng đinh, loại tử hình nặng nhất thời đó, và dù đang bị treo trên Thập giá,
Đức Giêsu vẫn đại lượng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ
làm” (Lc 23:34). Kể từ xưa tới nay, và đến mãi về sau, chắn chắn
không thể có sự tha thứ nào lớn hơn nữa!
Ngay cả
tên gian phi cùng bị đóng đinh với Ngài, với chỉ một lời “xin nhớ tới hắn” thôi, thế mà Ngài liền cho hắn đồng hành vào
Thiên quốc, và trở thành vị thánh đầu tiên của Tân Ước. Hạnh phúc thay cho
Dismas!
Cái chết
là kết thúc cuộc sống trần gian, trút hơi thở cuối cùng là ranh giới giữa sự
sống và sự chết. Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con
trong tay Cha” (Lc 23:46). Nói xong, Ngài tắt thở!
Thấy sự
việc xảy ra nhãn tiền, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa: “Người
này đích thực là người công chính!” (Lc 23:47), và toàn thể dân chúng đã
kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về (Lc
23:48). Đó là những biểu hiện sám hối, họ còn may mắn và kịp nhận ra tội mình –
không trực tiếp thì cũng gián tiếp giết chết người vô tội, làm khổ tha nhân,
sát hại Đức Kitô.
Không có
nỗi đau khổ nào bằng nỗi khổ của Chúa Giêsu. Được tôn làm vua mà không có ngai
vàng, không được đăng quang, thay vào đó lại là nhục hình Thập giá!
Lạy Chúa,
chúng con thành tâm sám hối và xin lỗi Chúa, xin thương xót và tha thứ. Xin cảm
tạ Chúa Cha đã ban Đấng Cứu Thế cho chúng con. Chúng con thật may mắn và hạnh
phúc vì được tận hưởng Lòng Thương Xót vô biên nhờ cái chết của Đức Kitô, dù
chính chúng con đã nhẫn tâm trực tiếp hoặc đồng lõa sát hại Con Thiên Chúa. Xin
ban Thánh Thần giúp chúng con can đảm sống xứng đáng với Ơn Cứu Độ, kiên trì đi
trọn hành trình đau khổ và làm chứng nhân của Lòng Chúa Thương Xót, để chúng
con cũng được cùng phục sinh với Chúa Con. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử
Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét