Hai Con Người
(Sat,
27/02/2016 - Trầm
Thiên Thu)
Trong mỗi
chúng ta đều có hai con người – hai bộ mặt. Một con người luôn hướng thiện với
lương tâm tốt, nhân chi sơ tính bổn thiện, đó là tiếng nói động viên của Thiên
Chúa: “Hãy hoàn thiện như Cha trên trời” (Mt 5:48). Một con người theo
hướng ác với lương tâm lệch lạc, đó là tiếng nói xúi giục của ma quỷ: “Chẳng
chết chóc gì đâu!” (St 3:4). Hai con người, nhưng chỉ một cuộc đời. Vì thế,
với hai con người đó, chúng ta gọi là “hai
nửa cuộc đời”.
Hai con
người hoặc hai “nửa” đó luôn giằng co
khiến chúng ta phải thực sự can đảm và dứt khoát mới có thể hành động đúng. Khó
thật! Thánh Phaolô đã phải than thở: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm,
nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm” (Rm 7:15).
Mỗi chúng
ta có hai con người nên mỗi chúng ta cũng có hai bộ mặt và hai tính cách: Hiền
và dữ, tươi cười và nhăn nhó, đẹp và xấu, mềm và cứng, đen và trắng,...
Trình
thuật Lc 15:11-32 là dụ ngôn “Người Cha
Nhân Hậu” (trước đây gọi là dụ ngôn “Đứa
Con Hoang Đàng”). Đây là dụ ngôn điển hình nhất trong ba dụ ngôn về Lòng
Chúa Thương Xót, và là dụ ngôn rất thực tế – hai dụ ngôn kia là “Con Chiên Bị Mất” (Lc 15:4-7; Mt 18: 12
-14) và “Đồng Bạc Bị Mất” (Lc
15:8-10).
Trong dụ
ngôn “Người Cha Nhân Hậu” có hai
người con, một BƯỚNG BỈNH và một NGOAN NGOÃN. Đó là hình ảnh “hai con người” trong chúng ta. Tuy
nhiên, chúng ta thường chỉ “nhắm” vào
tội của người con thứ mà “làm ngơ”
tội của người con trưởng (con cả).
Một hôm,
khi thấy các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để
nghe Ngài giảng, những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông
này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc 15:2). Có thể chúng
ta không nói ra, nhưng có lẽ chúng ta cũng đã từng “liếc mắt sắc như dao cau” hoặc dè bỉu, hoặc có các động thái tương
tự câu nói đó của họ.
Nghe họ rỉ
tai nhau như vậy, Chúa Giêsu kể một hơi dài với ba dụ ngôn về Lòng Thương Xót.
Một trong ba dụ ngôn (Lc 15:11-32) là câu chuyện “rất quen” như thế này…
Một
người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha: “Thưa cha, xin cho con
phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con”. Ít
ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống
phóng đãng, phung phí tài sản của mình.
Khi
anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng
khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người
dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu
muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm
và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa,
mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người:
Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con
cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy. Thế rồi anh ta đứng
lên đi về cùng cha”.
Bấy
giờ người con nói rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha,
chẳng còn đáng gọi là con cha nữa”. Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ
rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép
vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!
Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Và họ
bắt đầu ăn mừng.
Lúc
ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy
tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì.
Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp
lại cậu ấy mạnh khoẻ”. Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà.
Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời
con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy
được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau
khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê
béo ăn mừng!”.
Nhưng
người cha nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những
gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con
đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Vâng,
chẳng cần đọc lại hoặc nghe lại vì chắc hẳn tất cả chúng ta đã “thuộc lòng” dụ ngôn này rồi, càng nhiều
tuổi càng nghe nhiều. Người cha không dùng quyền mà ép nó. Thiên Chúa hoàn toàn
cho chúng ta tự do, không hề bắt buộc, thế nên chúng ta không thể trốn tránh
trách nhiệm hoặc tự biện hộ với bất cứ lý do gì – nghĩa là chúng ta không thể
việc cớ “tại, vì, bởi, nếu, giá mà…”.
BỘ
MẶT THỨ NHẤT: NGƯỜI CON THỨ
Bản
chất con người luôn muốn chứng tỏ “bản
lĩnh” của mình, nghĩa là chúng ta muốn nổi dậy, thích tự do, không muốn bị
gò bó. Người con thứ là “bản chất xấu”
trong chúng ta. Lúc nào nó cũng tìm dịp để nổi dậy, sơ hở một chút là nó vùng lên
ngay. Nó biết “đi hoang” là sai trái,
nhưng nó có nhiều lý do để chống chế, tự biện hộ, và tự cho là mình hành động
đúng. Trong khi đó, thằng quỷ kiêu ngạo lại cứ rỉ rả bên tai: “Chẳng chết
chóc gì đâu mà sợ!” (St 3:4). Thế là chúng ta cứ “vô tư” mà phạm tội!
Cám dỗ nào
cũng ngọt ngào, cám dỗ nào cũng đẹp, không ngọt ngào và không đẹp thì làm sao
lôi cuốn? Cũng như quảng cáo nào cũng bắt mắt, bùi tai, mua và dùng rồi mới
biết là… bị lừa! Những người đi lừa người khác luôn khéo nói, như thế mới có
thể chiếm dụng tài sản của người khác, như thế nhiều người mới mắc lừa.
Miệng ăn,
núi lở. Tiền rừng cũng hết, bạc biển cũng cạn. Sau khi ăn chơi phung phí và
trác táng, không còn một xu dính túi, người con thứ mới nhận thấy mình… sai, vì
sống khổ sở quá, đến nỗi thèm cám heo cũng không ai cho mà ăn. Đắn đo, nghĩ tới
nghĩ lui, hết cách, bị triệt buộc, chỉ còn “đường
binh” cuối là trở về với cha mà thôi.
Sự trở về
nghe chừng đơn giản, ngắn gọn, nhưng thực ra không hề dễ dàng, cam go lắm.
Trước khi cất bước trở về, người con thứ phải chiến đấu với chính mình rất dữ
dội, giằng xé nát lòng, suy nghĩ nát óc. Đi xa về mà te tua tơi tả thì ai mà
coi được! Phải “mặt dày” lắm mới có
thể trở về. Một sự giằng co nữa là ngại với cha, xấu hổ lắm, không biết cha có
nhận mình về hay lại đuổi đi. Gay go thật!
Vì ở bước
đường cùng, người con thứ phải quyết trở về để tìm đường sống, bất đắc dĩ phải
làm vậy thôi. Nó không dám mong gì hơn, chỉ dám hy vọng mong manh là cha sẽ
nhận nó như đầy tớ hoặc người làm công thôi. Nhưng thật bất ngờ, người cha
không chỉ tha thứ tội lỗi cho nó mà còn phục hồi cương vị làm con yêu dấu và mở
tiệc liên hoan y như nó là quan trạng vinh quy bái tổ vậy. Nước mắt vẫn chảy
xuôi. Tình phụ tử kỳ diệu thật!
BỘ
MẶT THỨ NHÌ: NGƯỜI CON TRƯỞNG
Người
con trưởng là con cả hoặc anh hai. Chúng ta tưởng đứa con này khôn ngoan, lễ
phép, nhưng không phải vậy, có thể có “khôn”
nhưng chưa “ngoan”. Tại sao? Nó đã
nhẫn tâm phủ nhận tình huynh đệ, tình máu mủ ruột rà, lại còn kiêu ngạo khi tự
nhận mình là đứa con hiếu thảo, đồng thời so đo và đố kỵ: “Cha coi, đã bao
nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ
cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của
cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về thì cha
lại giết bê béo ăn mừng!”. Rõ ràng anh ta ở bên cha nhưng không hề thật
lòng yêu thương cha, chỉ nhắm tới gia tài. Vì thế, khi thấy thằng em “trời đánh” trở về và được cha mở tiệc
mừng, thằng anh ghen tức, sợ phần gia tài còn lại sẽ bị thằng em “ăn chia”.
Không chỉ
ghen tương và đố kỵ, thằng anh còn mặc nhiên coi thường tình phụ tử, nó ở gần
cha mà lòng lại xa cha. Nhìn người con trưởng, chúng ta thấy nó có vẻ bình
thường và là đứa con ngoan ngoãn, nhưng thực ra nó nhiều tội lắm! Loại “con người” này cũng vẫn thường xuất
hiện ở trong mỗi chúng ta. Có thể chúng ta không nói ra bằng lời, nhưng qua các
động thái, chúng ta vẫn ngầm cho mình là người đạo đức hơn người khác: Tưới cây
trong khu nhà thờ, quét nhà thờ, tham gia hội đoàn Legio, huynh đoàn Đa-minh,
hội Con Đức Mẹ, hội Phạt Tạ Thánh Tâm, hội Cầu Nguyện, cộng đoàn Lòng Chúa
Thương Xót, ca đoàn, giúp lễ, đọc sách thánh, làm việc từ thiện,… Tham gia như
vậy cũng rất tốt, nhưng hãy coi chừng: Đừng chỉ chú trọng bề nổi mà thiếu chiều
sâu. Hãy hoạt động để sáng danh Chúa thực sự chứ đừng “đánh bóng” chính mình!
Điều MUỐN
và điều CẦN không giống nhau. Có rất nhiều điều chúng ta ước muốn lắm, nhưng
trong số đó vẫn có những điều thực sự không cần thiết. Ví dụ, chúng ta mua quần
này, áo nọ, giày nọ, dép kia, thay đổi điện thoại đời mới, máy chụp hình,...
Thế nhưng có những thứ đó hoàn toàn là lãng phí, chỉ là đua đòi, chứ thực sự
chưa hoặc không cần thiết. Chúng ta thường bị ảo giác trước vẻ hào nhoáng của
các vật, bị chúng làm lóa mắt, do đó mà chúng ta sẵn sàng “vung tay quá trán” và hoang phí. Đó là chúng ta bị những ham muốn
lừa dối. Về lĩnh vực tâm linh cũng tương tự!
Cuộc đời
như sân khấu vậy, người ta hóa trang đủ kiểu khiến người khác khó nhận biết.
Các sản phẩm ngày nay cũng khó nhận ra cái nào thật hoặc giả, hàng hiệu hoặc
hàng nhái. Trong cuộc sống tâm linh cũng vậy, chúng ta vẫn có nhiều loại “mặt nạ”. Phải thực sự can đảm mới đủ
sức lột mặt nạ để có thể luôn luôn cứ là chính mình!
Trong
chúng ta cũng có hai “con người” như
hai người cầu nguyện tại Đền Thờ – người thu thuế và người Pha-ri-sêu (x. Lc
18:9-14). Ước gì chúng ta “mặc lấy”
con người của người-thu-thuế-khiêm-nhường, nhưng “cởi bỏ” con người của người-Pha-ri-sêu-kiêu-ngạo.
Mùa Chay,
chúng ta hãy cùng nhau “lột xác” theo
lời khuyên của Thánh Phaolô: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống
xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần
Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được
sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện”
(Ep 4:22-14).
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót,
xin cho con biết Chúa và biết con, để con sống đúng theo Thánh Ý Ngài và nhân
từ với tha nhân; xin giúp con can đảm chết cho tội lỗi để được sống lại vinh
quang với Đức Kitô Giêsu. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét