Phục tùng lời mời gọi và ý Chúa
- Tình yêu mở ra nhiều cửa
Fri, 25/06/2021 - Lại Thế Lãng
Phục tùng lời mời
gọi và ý Chúa
The Word Among Us – Lại
Thế Lãng dịch
Tom là một giám đốc điều
hành có kinh nghiệm trong một công ty Fortune 500 khi anh ta nhận được cuộc gọi
từ một người bạn đang đứng đầu một tổ chức từ thiện địa phương phục vụ người
nghèo trong khu vực của anh ta. “Tôi đã quyết định nghỉ hưu”, người bạn của anh
ấy nói “và tôi muốn bạn cân nhắc thay thế vị trí của tôi”.
Vài năm trước đó, Tom và
vợ là Carol đã bắt đầu dành nhiều thời gian rảnh để làm tình nguyện viên cho tổ
chức này. Họ thích tương tác với nhân viên và những người họ đang phục vụ.
Nhưng không phải trong những giấc mơ hoang đường nhất của Toms, anh đã từng
nghĩ đến việc từ bỏ công việc lương cao và văn phòng của mình để làm việc trong
một tòa nhà tồi tàn ở một khu vực tồi tệ của thành phố với mức lương thấp hơn
nhiều. “Tôi sẽ cầu nguyện về điều đó” anh ấy đã hứa với bạn mình. Nhưng trong
thâm tâm của anh ấy, anh ấy nghĩ “Không đời nào mình có thể làm được điều này”.
Tuy nhiên, đúng với lời hứa
của mình, Tom đã dành thời gian cầu nguyện để xin Chúa dẫn dắt và chỉ dẫn.
Trong vài tuần, anh cảm thấy Chúa kêu gọi anh thực hiện bước nhảy vọt của đức
tin. Anh được khích lệ khi Carol nói với anh rằng cô cũng có cảm nghĩ như vậy.
Vì vậy, Tom đã hít một hơi thật sâu từ bỏ công việc của mình và tùng phục cho
những gì anh tin rằng Chúa đang kêu gọi anh làm: sử dụng các kỹ năng kinh doanh
và lãnh đạo mà anh đã mài dũa trong nhiều năm để lãnh đạo tổ chức từ thiện này.
Đầu phục trước Lời mời gọi
của Chúa. Có khi nào Thiên Chúa kêu gọi bạn làm điều gì đó mà bản thân bạn
không chọn? Có thể Ngài đã gọi bạn làm cha mẹ của một đứa trẻ có nhu cầu đặc biệt
hoặc làm người chăm sóc cho người cha già của bạn. Bạn có thể đã cảm thấy được
kêu gọi để lãnh đạo một mục vụ giáo xứ mà bạn cảm thấy không đủ khả năng hoặc
là để tiếp cận với người lân cận hoặc dành thời gian mỗi ngày để cầu nguyện cho
gia đình của bạn.
Nếu bạn cảm thấy rằng
Chúa đang gọi bạn bây giờ hoặc đã gọi bạn trong quá khứ thì bạn không hề đơn độc.
Trong suốt thời gian dài, Thiên Chúa đã kêu gọi mọi người làm công việc của
Ngài trên thế gian. Đôi khi chúng ta phấn khích về những gì chúng ta nghĩ rằng
Chúa có thể yêu cầu chúng ta làm và chúng ta hết lòng phục tùng điều đó. Nhưng
phản ứng ban đầu của chúng ta có thể không phải lúc nào cũng tích cực như vậy.
Đó chắc chắn là trường hợp của một số người trong Kinh Thánh mà Thiên Chúa đã gọi.
Ví dụ, khi Chúa kêu gọi
Mô-sê để dẫn dắt dân tộc của Ngài thoát khỏi ách nô lệ, Mô-sê đã đáp lại “Con
là ai mà dám đến với Pha-ra-ô và đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập?” (Xh 3:
11). Khi Thiên Chúa kêu gọi Ghít-ôn để cứu dân Ít-ra-en khỏi những người
Ma-đi-an xâm lược, ông đã phản đối “Ôi, thưa Ngài, con lấy gì mà cứu Ít-ra-en?
Này dòng họ con thấp kém nhất trong chi tộc Mơ-na-se, mà con lại nhỏ nhất trong
nhà cha con.” (Tl 6: 15). Giê-rê-mi-a cũng có phản ứng tương tự khi Chúa gọi
ông làm nhà tiên tri “Ôi! Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con
không biết ăn nói!” (Gr 1: 6). Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, Thiên Chúa đã hứa
“Ta sẽ ở với ngươi” (Tl 3: 12)
Ai, tôi sao? Tùng phục
trước lời mời gọi của Thiên Chúa trong cuộc sống của chúng ta, đặc biệt là khi
chúng ta không cảm thấy có thể thực hiện được nó, có thể là một cuộc đấu tranh.
Phản ứng đầu tiên của chúng ta giống như các anh hùng trong Kinh thánh ở trên,
có thể là “Ai, tôi sao?”. Chúng ta thậm chí có thể nghĩ rằng Thiên Chúa đã sai
lầm khi yêu cầu chúng ta.
Nhưng điều quan trọng là
tùng phục trước tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, nó cũng quan trọng
là tùng phục theo tiếng gọi của Ngài. Ngài có thể có một sứ mệnh đặc biệt cho
chúng ta mà chỉ chúng ta mới có thể làm được. Điều đó có thể đòi hỏi phải vượt
qua sự phản kháng ban đầu dựa trên nỗi sợ hãi rằng Thiên Chúa đang yêu cầu một
điều gì đó vượt xa chúng ta. Giống như Tom, nó có thể đòi hỏi một bước nhảy vọt
của niềm tin để nói đồng ý. Và việc tiếp nhận lời kêu gọi thường sẽ liên quan đến
những cuộc đấu tranh của chính nó.
Nhưng những gì Thiên Chúa
đã hứa với Mô-sê, Ghít-ôn và Giê-rê-mi-a, Ngài cũng hứa với chúng ta, “Ta sẽ ở
với ngươi”. Khi phó thác trong sự tin cậy, chúng ta có thể trông cậy vào Thiên
Chúa để Ngài giúp đỡ và hướng dẫn chúng ta. Chúng ta có thể tin tưởng rằng Ngài
biết rõ những sự yếu đuối của chúng ta hơn bất kỳ ai khác và rằng Ngài sẽ không
mời gọi chúng ta nếu Ngài không ban cho chúng ta ân sủng để thực hiện nó.
Đầu phục trước mầu nhiệm
của Thiên Chúa. Nhưng còn những điều chúng ta không hiểu thì sao – những điều
Chúa không chủ động muốn cho cuộc sống của chúng ta nhưng Ngài đã cho phép
chúng xảy ra? Chúng ta có thể bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư, chúng ta có thể bất
ngờ bị cho nghỉ việc hoặc chúng ta có thể mất một người thân yêu vì COVID-19.
Những tình huống đó có thể khó chấp nhận. Chúng ta thậm chí có thể tức giận với
Chúa vì chúng không trùng khớp với cái nhìn mà chúng ta đã có cho cuộc đời
mình.
Không ai có thể giải
thích tại sao Chúa lại cho phép những điều tồi tệ như thế này xảy ra. Đó là một
mầu nhiệm mà chúng ta có thể không bao giờ hiểu được. Tuy nhiên, bất kể chúng
ta phải đối mặt với thử thách nào, Chúa vẫn yêu cầu chúng ta tin cậy vào Ngài.
Ngài muốn chúng ta tin rằng Ngài có thể mang lại điều tốt từ mọi điều xấu và
Ngài có thể mang lại hy vọng ngay cả khi đau khổ lớn nhất. Và vì vậy, Ngài yêu
cầu chúng ta dâng ngay cả hoàn cảnh đau đớn của chúng ta cho Ngài để chúng ta
có thể bắt đầu cảm nghiệm “bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu
biết,” (Pl 4: 7).
Chúa Giêsu cố gắng uống
chén đắng. Hình mẫu tuyệt vời nhất mà chúng ta có về một người phục tùng ý muốn
của Thiên Chúa là chính Chúa Giêsu. Khi trở thành người phàm, Ngài đã “hoàn
toàn trút bỏ” và trở nên “vâng lời cho đến
nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”. (Pl 2: 7- 8). Ngài nói với những
người theo Ngài rằng “tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng
để làm theo ý Đấng đã sai tôi”(Ga 6: 38).
Vậy mà Chúa Giêsu vẫn phấn
đấu. Vào đêm trước khi chết, Ngài đã cầu nguyện “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất
chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha.” (Lc 22:
42). Chúng ta nên nhận được sự an ủi lớn từ điều này. Ngay cả Chúa Giêsu là
Thiên Chúa cũng cảm thấy một con người khó đầu phục ý muốn của Thiên Chúa.
Nhưng Ngài sẵn sàng chịu đựng sự bắt bớ, tra tấn, chế giễu và đóng đinh - vì đó
là điều mà Chúa Cha yêu cầu Ngài - là
Chiên Con của Thiên Chúa, Đấng mang tội lỗi của thế gian.
Bằng cách này hay cách
khác, tất cả các vị thánh vĩ đại đều phục tùng ý muốn của Thiên Chúa và tất cả
họ đều khám phá ra niềm vui và sự bình an to lớn khi làm điều đó - ngay cả khi
khó khăn. Hãy nhìn vào Thánh Phao-lô, người đã chịu đựng những lần đắm tàu và
ngược đãi khi ông rao giảng Phúc Âm. Hoặc Thánh Têrêxa Ávila, người đã chịu đựng
sức khỏe kém và cơn mưa khủng khiếp băng qua Tây Ban Nha khi thánh nữ thiết lập
các hội dòng Cát- Minh được cải cách. Họ làm những điều này vì họ yêu Chúa và
tin cậy Ngài. Họ làm điều đó bởi vì họ đã tùng phục trước tình yêu và lòng
thương xót của Ngài. Và họ làm điều đó vì họ biết ý muốn của Ngài dành cho họ
là hoàn thành một mục tiêu lớn hơn - là đưa mọi người đến với Chúa Kitô và xây
dựng Giáo hội.
Và đây là một câu chuyện
thời hiện đại về một người đàn ông đã tìm thấy bình an khi phục tùng ý muốn của
Thiên Chúa.
“Một món quà hoàn chỉnh của bản thân”. Cha
Walter Ciszek Dòng Tên (1904-1984) là một nhà truyền giáo người Mỹ gốc Ba Lan
đã đến Nga vào năm 1940 để làm mục vụ cho một dân tộc đang bị bức hại dưới chế
độ Cộng sản. Vài tháng sau khi đến, Ciszek bị bắt về tội làm gián điệp và bị
đưa đến nhà tù khét tiếng Lubyanka, nơi cha phải chịu đựng hàng giờ thẩm vấn và
đánh đập. Vì qúa mệt mỏi, cha đã ký vào một lời thú tội không đúng sự thật và bị
kết án mười lăm năm lao động khổ sai.
Ciszek đã bị tan nát. Đây
không phải là điều cha dự định khi lên đường đến Nga. Nhưng giữa cơn chán nản,
cha đã có sự hiển linh. Như cha đã viết trong cuốn sách “Ngài đã theo đuổi tôi”
Tôi nhận ra ý muốn của
Chúa không ẩn ở đâu đó ngoài kia mà là những tình huống mà tôi tìm thấy ở bản
thân mình. Ý muốn của Ngài dành cho tôi. Ngài muốn tôi chấp nhận những tình huống
đó như từ tay Ngài để buông bỏ dây cương và đặt tôi hoàn toàn theo ý của Ngài.
Ngài đã yêu cầu tôi một hành động hoàn toàn tin tưởng. . . một món quà hoàn chỉnh
của bản thân không có gì cản trở.
Quyết định phục tùng Chúa
đó đã giải thoát Ciszek khỏi sự lo lắng và hồi hộp. Sau đó, cha đã tìm thấy cơ
hội để cử hành các bí tích một cách bí mật với các tù nhân, điều đã mang lại
cho cha niềm vui lớn. Sau khi được phóng thích, cha đã phục vụ người dân ở một
thị trấn gần đó của Nga. Cuối cùng vào năm 1963, các quan chức Nga đã gửi cha
trở lại Hoa Kỳ.
Mặc dù có lẽ chúng ta sẽ
không bao giờ phải sống trong những điều kiện khắc nghiệt mà Cha Ciszek đối mặt,
tất cả chúng ta phải đương đầu với những thử thách và khó khăn khác nhau. Chúng
ta thậm chí có thể đang chịu đựng chúng ngay bây giờ.
Nhưng nếu chúng ta cố gắng
hết sức để phục tùng Chúa như Cha Ciszek đã làm, chúng ta sẽ tìm thấy ân sủng của
Ngài. Hãy nhớ phục tùng không có nghĩa là bỏ cuộc. Nó có nghĩa là để cho Thiên
Chúa vạch ra các mục đích và kế hoạch của Ngài cho chúng ta và tin tưởng rằng
Ngài sẽ mang lại điều gì đó tốt đẹp từ hoàn cảnh, ngay cả khi chúng ta không thể
nhìn thấy nó. Và đó là bí mật của sự bình an.
Phục tùng Thiên Chúa
không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng chúng ta càng tạo thói quen phục tùng
thì chúng ta càng sẵn sàng hơn khi Chúa yêu cầu chúng ta lần sau./.
************
Tình yêu mở ra nhiều cửa – câu chuyện của thánh Clare thành Assisi
Nữ tu Inez Marie Salfer – Lại Thế Lãng dịch
Đúng hơn tám trăm năm trước,
vào Chúa Nhật Lễ Lá năm 1212, một phụ nữ trẻ đã trốn ra khỏi nhà của mình trong
đêm khuya.
Cô không phải là thiếu nữ
đầu tiên trong lịch sử trốn tránh sự theo dõi của gia đình và cô cũng sẽ không
phải là người cuối cùng. Tuy nhiên, chúng ta nhớ đến cô ấy bởi vì cô ấy không
như là một cô gái mười tám tuổi đầy tinh thần tự do khác: Clare của Assisi đang
trốn chạy để đáp lại lời kêu gọi của Chúa.
Là con gái lớn trong gia
đình quý tộc giàu có, tiểu thư Clare được cho là sẽ kết hôn với một nhà quý tộc
giầu có và uy thế. Thay vào đó, cô khao khát được dâng cuộc đời mình cho Chúa
theo gương của Phanxicô, con trai của một thương gia phát đạt ở Assisi, người
đã từ bỏ tất cả cơ nghiệp của mình để theo Chúa Kitô như một người ăn xin nghèo
nàn. Biết rằng những người thân của cô sẽ không bao giờ đồng ý, Clare rời nhà một
cách đầy kịch tính và biểu tượng.
Các ngôi nhà trong vùng
ngày đó được xây dựng bao gồm một cửa phụ hoặc cửa sau được gọi là “cửa tử”. Nó
được sử dụng để chuyển thi thể của các thành viên gia đình đã qua đời để chôn cất.
Ở Assisi, “cửa tử ” này cũng được sử dụng khi một phụ nữ trẻ bỏ nhà đi lấy chồng
- một dấu hiệu cho thấy cô ấy đang chết
với gia đình của mình để kết hợp với chồng.
Clare đã chọn rời khỏi
nhà qua “cửa tử” vì đã hiến thân hoàn toàn cho Chúa Giêsu, cô cũng đang chết đi
đối với gia đình và lối sống trước đây của mình. Tuy nhiên, đây không phải là vấn
đề đơn giản. Cánh cửa được chặn bằng những thanh xà gỗ nặng và một cột đá để chỉ
được sử dụng cho những mục đích đặc biệt của nó.
Nhưng tình yêu vượt qua mọi
trở ngại! Với sức mạnh của Chúa Giêsu trong trái tim cô, Clare đã gỡ bỏ những
rào cản một cách lặng lẽ và nhanh chóng. Tình yêu thiêng liêng bùng nổ và cô ấy
được tự do.
Một ánh sáng mới lan tỏa.
Đây chỉ là cánh cửa đầu tiên trong số rất nhiều cánh cửa mà Clare sẽ phải vượt
qua trong đời. Được trang bị với sức mạnh nội tâm can đảm và ân sủng của Chúa,
cô đã loan báo một con đường mới không chỉ ảnh hưởng đến các nữ tu khác mà còn ảnh
hưởng đến toàn thể Giáo hội.
Khi Clare còn trong bụng
mẹ, bà Ortolona đã nhận thức được rằng đứa trẻ này sẽ soi đường cho nhiều người
khác. Sợ hãi vì tỷ lệ tử vong cao khi sinh nở, Ortolona đã hết sức cầu nguyện
cho một ca sinh nở an toàn. Một ngày nọ, bà nghe thấy một giọng nói từ bên
trong, “Hỡi bà, đừng sợ hãi vì bà sẽ vui mừng mang lại ánh sáng rõ ràng sẽ chiếu
sáng thế giới”. Thật phù hợp, Ortolana đã đặt tên cho con gái mình là Chiara
(tiếng Ý là Clare) có nghĩa là “trong sáng” hoặc “ánh sáng”.
Ortolana là một người phụ
nữ sùng đạo và luôn quan tâm đến những người đang gặp khó khăn. Qua sự chứng kiến
của mình, Clare học được cách tử tế với những người nông nô làm ruộng và lao
động chân tay khác cho các gia đình quý tộc ở Assisis. Cô và mẹ cô thường xuyên
xách những giỏ thức ăn xuống dốc núi Subasio để đến nhà những người nghèo. Tất
cả những điều này đã đánh động sâu sắc trái tim trẻ thơ của Clare và chuẩn bị
cho cô hướng nhìn vượt ra ngoài ranh giới giai cấp.
Clare cũng chú ý đến bảy
người chú mạnh mẽ của cô là những hiệp sĩ mặc áo giáp và cô ngưỡng mộ cách họ
dũng cảm bảo vệ phụ nữ và trẻ em khỏi nguy hiểm. Cô dường như được thừa hưởng
lòng dũng cảm của họ cùng với lòng nhân ái dịu dàng của mẹ cô, với đức tin và sự
tin tưởng vào Chúa. Sự kết hợp các đặc điểm này tỏ ra rất quan trọng khi cô vượt
qua nhiều cánh cửa trên con đường của mình.
Khó khăn cũng là một phần
của Clare những năm đầu. Khi chiến tranh nổ ra ở Assisi, bà Ortolana và ba cô
con gái nhỏ của bà đã đến lánh nạn ở thành phố Perugia lân cận. Clare đã trở
thành một tiểu thư xinh đẹp vào thời điểm họ trở về nhà vào năm 1205. Dầu vậy,
mọi người nhận xét rằng cô không tìm cách phô diễn vẻ đẹp của mình như những
thiếu nữ quý tộc trẻ khác của Assisi. Trong khi họ đứng trên những ban công nhà
mình với hy vọng được các hiệp sĩ trẻ chú ý, trái tim của Clare đang ở nơi
khác.
Dũng cảm Vượt thoát. Bất
chấp những lợi thế của tầng lớp mình, một thiếu nữ quý tộc trẻ tuổi như Clare
không có nhiều lựa chọn. Ở một lúc nào đó khoảng từ mười bốn đến mười tám, cô
được cho là sẽ kết hôn với một người giàu có danh giá do gia đình cô chọn. Tuy
nhiên, Clare đã từ chối mọi lời cầu hôn vì một lý do khác: Chúa Giêsu đáng
thương bị đóng đinh trên thập tự giá đã chiếm trọn trái tim cô. Qua lời giảng của
Phanxicô, ước muốn mà Thiên Chúa đã sẵn sàng gieo vào Clare bùng lên ngọn lửa
tình yêu mãnh liệt.
Cô can đảm lặng lẽ tìm
cách nói với Phanxicô về ước muốn của mình. Sau vài lần gặp gỡ bí mật, Phanxicô
thấy rằng cô chân thành, đã truyền đạt ý định của cô cho vị giám mục của
Assisi. Cả hai quyết tâm giúp đỡ Clare vì họ biết rằng các người chú của cô sẽ
cố gắng ngăn cản cô khỏi một lối sống được coi là không xứng hợp với quý tộc. Một
nơi an toàn đã được bố trí – đó là một tu viện của các nữ tu dòng Biển Đức ở
Bastia gần đó.
Vào đêm cô trốn thoát,
Clare và một người anh họ đã gặp Phanxicô và các thầy Dòng ở cổng thành. Bằng
ánh đuốc, họ đi qua khu rừng đến nhà thờ nhỏ Thánh Maria các Thiên Thần, nơi
Clare dâng mình cho Chúa Giêsu. Phanxicô cắt mái tóc đẹp của cô, và cô thay bộ
quần áo đẹp của mình bằng một chiếc áo choàng thô và đôi dép. Sau đó cô và các
thầy Dòng bước vào đêm tối đến Bastia, nơi các Nữ tu Biển Đức đang đợi.
Sáng hôm sau, đúng như dự
đoán, bảy người chú của Clare đã đến đưa cô về nhà. Clare bám vào bàn thờ trong
tu viện - là nơi tôn nghiêm, đó là một nơi đặc biệt mà những kẻ đào tẩu không
thể bị chạm vào. Những người thân của cô vẫn theo sau, sử dụng vũ lực và kết tội
cô làm xấu mặt gia đình. Clare đã chống lại bằng lòng dũng cảm của một hiệp sĩ
và sức mạnh của Chúa Giêsu trong trái tim cô.
Cuối cùng, cô xé tấm khăn
che của mình để cho thấy mái tóc xinh đẹp của cô đã được cắt bỏ. Kinh ngạc, các
người chú của cô cuối cùng đã hiểu rằng cô đã chọn một con đường mới. Cô đã đi
qua “cửa tử” để hòa mình vào không phải một chàng rể giàu có mà đến với Chúa
Giêsu, người đã trở nên nghèo khó vì lợi ích của chúng ta.
Phá bỏ rào cản giai cấp.
Thời gian ngắn ngủi ở tu viện vốn giàu có và nổi tiếng của Clare đã chứng tỏ
giá trị. Nó cho cô một cơ hội để quan sát những cạm bẫy của việc sở hữu tài sản.
Cô cũng lưu ý rằng hệ thống giai cấp đã chiếm ưu thế. Clare có một tầm nhìn
khác - cô tin rằng mọi người giàu hay nghèo đều bình đẳng trước mặt Chúa.
Phanxicô đã nhanh chóng chính thức hóa Clare và em gái Catherine (người đã được
đặt tên là Agnes) tại nhà thờ San Damiano.
Và bắt đầu tu viện đầu tiên của những tu viện Clare nghèo khó. Tình yêu
sâu sắc của Clare dành cho Chúa Giêsu là điều hiển nhiên đối với tất cả mọi người
và chẳng bao lâu những người phụ nữ khác cảm thấy được Thiên Chúa kêu gọi tham
gia cùng họ.
Cộng đồng này là duy nhất
mặc dù phụ nữ đến từ mọi tầng lớp -
thương nhân, quý tộc và nông nô – mọi người đều bình đẳng. Các chị em xuất
thân từ dòng dõi quý tộc đã sát cánh cùng những người thuộc các gia đình nông
dân, và Clare tự mình làm những nhiệm vụ khó khăn nhất.
Đột phá. Clare vẫn chưa mở
hết những cánh cửa. Cô khẳng định rằng cộng đồng mới của cô không sở hữu tài sản
nào. Các nữ tu phải sống hoàn toàn bằng của bố thí và tin cậy nơi Chúa. Tất cả
đều chăm chỉ làm việc, kéo sợi từ rơm lanh được quyên tặng thành sợi lanh sau
đó dệt sợi này thành vải để làm khăn trải bàn thờ cho các nhà thờ nghèo. Họ ngủ
trên chiếu rơm trong một ký túc xá lớn và ăn bất cứ thứ gì người ta cho, chủ yếu
là bánh mì.
Nhiều chức sắc trong Giáo
hội đã cố gắng thuyết phục Clare từ bỏ trực quan của mình. Hơn một vị Giáo
hoàng đã quan tâm đến phúc lợi cộng đồng của Clare. Làm sao có thể tồn tại được
nếu không có thu nhập ổn định hay một chút tài sản? Clare đặt niềm tin vào Chúa
và xin Đức Thánh Cha ban cho “Đặc ân Nghèo khó” đặc ân không sở hữu gì. Đây là
điều mà không có dòng nữ tu nào từng yêu cầu! Đức Giáo hoàng Grêgôriô IX cân nhắc
và sau đó quan sát Clare và các nữ tu của cô hạnh phúc và sống thành công cuộc
sống nghèo khó này, đã ban đặc ân cho tu viện đặc biệt của Clare. Tuy nhiên, để
áp dụng cho tất cả các tu viện của Clare, đặc ân này cần phải được cụ thể hóa
trong một bản Điều lệ.
Clare cũng tìm ra cách để
mở cánh cửa này. Cho đến thời điểm đó, các nữ tu luôn tuân theo Điều lệ do nam
giới viết ra cho họ. Clare quyết định viết cho riêng mình. Dũng cảm với tất cả
sự tôn trọng đối với quyền bính của Giáo hội, Clare đã thành tâm thiết lập lối sống mà Clare cảm
thấy được kêu gọi để sống và đệ trình lên Giáo hoàng Innocent IV.
Clare nhận được sự chấp
thuận bản Điều lệ trên giường bệnh vào ngày 9 tháng 8 năm 1253 và hôn nó nhiều
lần để tỏ lòng biết ơn. Chỉ hai ngày sau, Clare đã bước qua cánh cửa cuối cùng
để đến với cuộc sống vĩnh hằng. Clare đã kiên quyết đứng vững trước con đường
mà Chúa đã gọi cô đến và đã làm điều đó một cách nhân ái.
Những cánh cửa sẽ mở.
Thiên Chúa có một kế hoạch và một sứ mệnh cho mỗi chúng ta như Ngài đã làm cho
Clare. Mặc dù chúng ta đang sống trong một thế giới rất khác với nước Ý hồi thế
kỷ mười ba, cuộc sống can đảm dấn thân của Clare mời gọi chúng ta hỏi: “Chúa
Giêsu đang dẫn tôi đến đâu? Ngài đang yêu cầu tôi vượt qua những cánh cửa nào?”
Ở mọi giai đoạn của cuộc
đời, chúng ta có thể chắc chắn rằng Chúa Giêsu sẽ trang bị cho chúng ta sự kêu gọi
như Ngài đã làm với Clare. Khi chúng ta gặp phải những trở ngại không thể tránh
khỏi - dù trong xã hội hay trong bản thân chúng ta - chúng ta có thể nhớ đến sự
tin tưởng dồi dào của Clare. Sau đó, nhận được “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi,
tôi chịu được hết.” (Pl 4: 13), chúng ta sẽ thấy mình rực sáng trên con đường độc
nhất của chúng ta đến với Ngài./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét